Banner Ngày 4/5/2024
Thông báo về kết quả trúng tuyển kỳ tuyển dụng viên chức của Trung tâm Ứng dụng Tiến bộ Khoa học và Công nghệ tỉnh Sóc Trăng năm 2023. ( 04/03/2024 )

1. Xu hướng dòng vốn lĩnh vực đổi mới sáng tạo

Năm 2023, xu hướng dòng vốn cho lĩnh vực đổi mới sáng tạo sẽ không còn những dòng tiền dễ, tiêu chí chọn lọc các Startup để rót vốn sẽ khó hơn, chặt chẽ hơn.

Vào năm 2021, Việt Nam đã thu hút được 2,6 tỷ USD qua 233 thương vụ đầu tư khởi nghiệp đổi mới sáng tạo. Vậy dòng vốn cho khu vực này năm vừa qua và năm 2023 sẽ như thế nào, lĩnh vực công nghệ nào sẽ nhận được sự quan tâm nhiều nhất?

Chia sẻ về tình hình dòng vốn cho khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo năm 2022, bà Lê Hàn Tuệ Lâm - Giám đốc quỹ đầu tư Nextrans cho biết, năm vừa qua là năm có nhiều biến cố với thị trường Starup, không phải chỉ đối với Việt Nam.

"Nếu chúng ta nhìn vào dòng vốn toàn cầu, đặc trưng có thể nói tới là thị trường Mỹ hoặc Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản cũng sẽ chứng kiến sự sụp giảm nhất định. Năm 2022 không phải là năm tươi sáng khi nói về dòng vốn đổ vào starup và lĩnh vực khởi nghiệp. Tuy nhiên, sang năm 2023 chúng ta sẽ học được rất nhiều bài học", bà Lâm nói.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết có 39 quỹ đầu tư đang hoạt động tại nước ta cũng cam kết sẽ rót thêm 1,5 tỷ USD cho thị trường khởi nghiệp Việt Nam từ nay đến hết năm 2025.

Cùng với Singapore và Indonesia, Việt Nam đang được đánh giá là trụ cột thứ 3 của "Tam giác vàng khởi nghiệp Đông Nam Á". Đây là thời điểm không thể tốt hơn để các startup vươn lên đón nhận sự dịch chuyển mạnh mẽ của dòng vốn toàn cầu.

 

Bà Lê Hàn Tuệ Lâm - Giám đốc quỹ đầu tư Nextrans.

Dù có thông tin khá tích cực giúp cộng đồng khởi nghiệp sáng tạo có thể yên tâm hơn nhưng năm 2023 sẽ không còn những dòng tiền dễ, tiêu chí chọn lọc các Startup để rót vốn sẽ khó hơn, chặt chẽ hơn.

"Năm 2023 các nhà đầu tư sẽ thiên về khẩu vị đề phòng rủi ro. Vì vậy nguyên tắc lựa chọn hay tiến hành các thương vụ sẽ chặt chẽ hơn rất nhiều. Nếu trước đây các Startup có ý tưởng và ý tưởng đủ đột phá, một thị trường đủ lớn hoặc đội ngũ đủ mạnh thì các quỹ đầu tư đã sẵn sàng rót vốn. Tuy nhiên, hiện tại chúng ta cần nhiều hơn một yếu tố như vậy", bà Lâm cho hay.

Cụ thể, theo bà Lâm các quỹ sẽ nhìn sâu hơn việc tạo dòng tiền tốt trong tương lại và nhân rộng, bộ máy nhận sự hiện tại liệu đủ tinh gọn hay chưa. Đó là các yếu tố các quỹ sẽ để tâm rất nhiều trong năm 2023.

Theo vtv.vn

2. Thúc đẩy hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng

Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đề ra những quan điểm có tính đột phá, đồng bộ và toàn diện về phát triển kinh tế tư nhân, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ và thúc đẩy phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo. Bài viết trình bày những điểm mới trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng về thúc đẩy phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo. Từ đó đề xuất một số giải pháp thúc đẩy hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng.

 

Hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo có ý nghĩa lớn đối với Việt Nam trong điều kiện số lượng và quy mô doanh nghiệp thấp hơn một số nước trong khu vực và thế giới.

Trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm để củng cố, tăng cường tiềm lực xây dựng đất nước ngày càng phát triển, bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Kinh tế là hoạt động sản xuất của cải vật chất, là toàn bộ phương thức sản xuất và trao đổi của một chế độ xã hội; là tổng hòa các mối quan hệ sản xuất như quan hệ sở hữu, quan hệ tổ chức, quản lý và quan hệ phân phối, dựa trên một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, tạo nên kết cấu kinh tế của chế độ xã hội hay cơ sở hạ tầng kinh tế của xã hội.

Trình độ phát triển của nền kinh tế chủ yếu phụ thuộc vào năng lực làm chủ của người lao động đối với tri thức kinh tế, khoa học và công nghệ, làm chủ thị trường, làm chủ trong việc xây dựng và điều hành chiến lược kinh tế ở tầm vĩ mô.

Sau hơn 35 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Thực tiễn chứng minh những thành tựu đạt được đã làm thay đổi nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường phát triển đã góp phần khẳng định: “Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử. Thành tựu và những kinh nghiệm, bài học đúc kết từ thực tiễn tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để đất nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong những năm tới”(3).

Trong cuốn sách Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Mô hình kinh tế mà chúng ta xây dựng là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây chính là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng qua hơn 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới”(4). TổngBí thư khẳng định: “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”(5). Quy mô và trình độ phát triển kinh tế - xã hội của nước ta hiện nay được nâng cao hơn trước, đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Song, bối cảnh mới cũng đang đặt ra nhiều khó khăn, thách thức cho đất nước trong việc phát triển nhanh và bền vững.

Trong những thập kỷ gần đây, khởi nghiệp sáng tạo xuất hiện và phát triển mạnh mẽ. Các nhà nghiên cứu đánh giá đây là nhân tố tiềm năng nhất để phát triển nền kinh tế của quốc gia, đưa khởi nghiệp sáng tạo trở thành lĩnh vực quan tâm hàng đầu. Hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo có ý nghĩa lớn đối với Việt Nam trong điều kiện số lượng và quy mô doanh nghiệp thấp hơn một số nước trong khu vực và thế giới.

Từ năm 2016, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 844/QĐ-TTg về việc phê duyệt đề án Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025. Đây là nền tảng để hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo phát triển mạnh mẽ tại Việt Nam và đã từng bước góp phần hình thành các mạng lưới liên kết, hỗ trợ thúc đẩy sự phát triển của tri thức, của khoa học công nghệ trong và ngoài nước, góp phần phát triển nền kinh tế số ở nước ta.

Sự phát triển mạnh mẽ, nổi bật của hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo Việt Nam là việc ứng dụng có chiều sâu mô hình đổi mới sáng tạo trong các hoạt động dịch vụ về y tế, chăm sóc sức khỏe, giáo dục đào tạo, kinh doanh, thanh toán, tài chính, logistics, blockchain, AI, kinh tế tuần hoàn, những mô hình đột phá trong giải quyết vấn đề môi trường, phát triển xanh và bền vững.

Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Xây dựng khung khổ pháp luật, môi trường thuận lợi thúc đẩy phát triển, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển kinh tế số; hỗ trợ, khuyến khích sự ra đời, hoạt động của những lĩnh vực mới, mô hình kinh doanh mới”(6). Để đạt mục tiêu hoàn thiện hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo, Đảng đưa ra quan điểm, chủ trương đổi mới một cách đồng bộ và toàn diện. Phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, phát triển nguồn nhân lực và phát triển kinh tế tư nhân là một trong các đột phá chiến lược được nhấn mạnh trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng.

Thứ nhất, quan điểm về phát triển kinh tế tư nhân

Tại Đại hội XIII, Đảng ta đã xác định mục tiêu phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Kế thừa và phát triển nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa qua các kỳ Đại hội Đảng, Đại hội XIII đã đánh giá kết quả: “Nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng đầy đủ hơn. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách tiếp tục được hoàn thiện phù hợp với các yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế. Các yếu tố thị trường và các loại thị trường từng bước phát triển đồng bộ, gắn với thị trường khu vực và thế giới”(7).

Tuy nhiên, nhận thức về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng còn bất cập. Kế thừa những nội dung về hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong các văn kiện trước, Đại hội XIII nhấn mạnh, cần tiếp tục thống nhất và nâng cao nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời nêu rõ nội hàm của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó: kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là động lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội”(8).

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XII đã đưa ra mục tiêu phát triển kinh tế tư nhân trở thành động lực quan trọng trong kinh tế thị trường định hướng XHCN, phát triển kinh tế tư nhân theo hướng nhanh, bền vững với tốc độ tăng trưởng cao cả về số lượng, quy mô, chất lượng và tỷ trọng trong tổng sản phẩm nội địa (GDP). Với mục tiêu này,vai trò của khu vực tư nhân trong nền kinh tế nước ta là rất lớn.              Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Xây dựng khung khổ pháp luật, môi trường thuận lợi thúc đẩy phát triển, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển kinh tế số; hỗ trợ, khuyến khích sự ra đời, hoạt động của những lĩnh vực mới, mô hình kinh doanh mới”(6). Để đạt mục tiêu hoàn thiện hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo, Đảng đưa ra quan điểm, chủ trương đổi mới một cách đồng bộ và toàn diện. Phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, phát triển nguồn nhân lực và phát triển kinh tế tư nhân là một trong các đột phá chiến lược được nhấn mạnh trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng

Kinh tế tư nhân đóng vai trò là động lực quan trọng của nền kinh tế, thể hiện trên các phương diện sau: Một là, vai trò trong việc duy trì tốc độ tăng trưởng GDP cao, tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước và tham gia giải quyết những vấn đề xã hội, như tạo việc làm, xóa đói, giảm nghèo, phát triển nguồn nhân lực... Hai là, kinh tế tư nhân đóng góp nhiều sáng kiến, đổi mới và sự đột phá. Trong đó, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân cao hơn 1,2 lần so với mức bình quân của nền kinh tế và hơn 1,9 lần so với khu vực nhà nước; đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân trong cơ cấu GDP luôn ở mức trên 43% GDP (khu vực kinh tế nhà nước là 28,9% GDP và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là 18% GDP)(9). Ba là, trong khi nhiều doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh kém hiệu quả với những dự án lớn bị thua lỗ thì vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân ngày càng được đánh giá tích cực hơn.

Đại hội XIII nêu rõ: “Xóa bỏ mọi rào cản, định kiến, tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế tư nhân; hỗ trợ kinh tế tư nhân đổi mới sáng tạo, hiện đại hóa công nghệ và phát triển nguồn nhân lực, nâng cao năng suất lao động. Khuyến khích hình thành, phát triển những tập đoàn kinh tế tư nhân lớn, tiềm lực mạnh, có khả năng cạnh tranh khu vực, quốc tế. Phấn đấu đến năm 2030, có ít nhất 2 triệu doanh nghiệp với tỷ trọng đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào GDP đạt 60% - 65%”(10).

Kinh tế tư nhân được Đảng ta khẳng định là một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế và được khuyến khích phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm, nhất là trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, được hỗ trợ thành các công ty, tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh, có sức cạnh tranh cao. Do vậy, quan điểm, chủ trương của Đảng về việc xây dựng cơ chế để phát triển mạnh mẽ kinh tế tư nhân tại Đại hội XIII là cơ sở chính trị, tạo động lực, góp phần phát triển và hoàn thiện hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo thời gian tới.

Thứ hai, quan điểm phát triển kinh tế dựa trên nền tảng khoa học - công nghệ

Đại hội XIII đã nhấn mạnh: “đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia; phát triển kinh tế số dựa trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo”(11). Như vậy, nền kinh tế số và đổi mới sáng tạo trở thành động lực quyết định để tăng năng suất lao động, lợi thế cạnh tranh trong tham gia chuỗi giá trị toàn cầuvà phát triển nền kinh tế.

Đại hội XIII nhận định: “Mô hình tăng trưởng chưa dựa trên nền tảng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, tính tự chủ của nền kinh tế còn thấp, vẫn còn phụ thuộc vào bên ngoài”(12). Do đó, Đại hội đã chủ trương: “thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo, phát triển các ngành, lĩnh vực, các doanh nghiệp trên nền tảng ứng dụng mạnh mẽ các thành tựu của khoa học và công nghệ, nhất là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”(13). Như vậy, điểm nhấn của Đại hội XIII chính là phát triển đất nước dựa trên nền kinh tế số và khẳng định thúc đẩy đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp để phát triển đất nước.

Đại hội XIII nhấn mạnh mô hình tăng trưởng mới cần tận dụng tốt cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, dựa trên tiến bộ khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo. Cụ thể là: “Tiếp tục đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế, chuyển mạnh nền kinh tế sang mô hình tăng trưởng dựa trên tăng năng suất, tiến bộ khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhân lực chất lượng cao, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả các nguồn lực để nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo, phát triển các ngành, lĩnh vực, các doanh nghiệp trên nền tảng ứng dụng mạnh mẽ các thành tựu của khoa học và công nghệ, nhất là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; phát triển các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, sản phẩm công nghệ cao, có giá trị gia tăng cao, thân thiện với môi trường, tham gia có hiệu quả vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu”(14).

Đại hội XIII nhấn mạnh những nội dung cốt lõi cần thực hiện cho giai đoạn tới phù hợp với điều kiện, bối cảnh trong nước và quốc tế, nhất là ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ nói chung, thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư nói riêng. Đó là điều chỉnh, bổ sung, nâng cao chất lượng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển nền kinh tế, các ngành, lĩnh vực, các vùng kinh tế phù hợp với thực tiễn đất nước và trình độ phát triển khoa học - công nghệ trên thế giới. Đẩy mạnh nghiên cứu chuyển giao, ứng dụng, phát triển, làm chủ công nghệ hiện đại; phát triển một số sản phẩm chủ lực có thương hiệu, có uy tín trong khu vực và thế giới. Nâng cao tiềm lực khoa học - công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực của đất nước, tạo cơ sở phát triển kinh tế số.

Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2021-2030 xác định: “Đẩy mạnh phát triển một số ngành, lĩnh vực kinh tế trọng điểm, có tiềm năng lợi thế và còn dư địa lớn để làm động lực cho tăng trưởng theo tinh thần bắt kịp, tiến cùng và vượt lên ở một số lĩnh vực so với khu vực và thế giới”(15). Điểm mới trong nội dung này thể hiện rõ CNH, HĐH phải dựa trên nền tảng khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo, tận dụng tốt cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư để có sự bứt phá trong một số ngành và lĩnh vực. Đồng thời, xây dựng nền công nghiệp quốc gia vững mạnh, chú trọng cả những ngành công nghiệp nền tảng và những ngành mới, công nghệ cao quyết định sự bứt phá về năng suất, chất lượng và hiệu quả của nền kinh tế. Chiến lược còn nêu rõ mục tiêu nâng tỷ trọng công nghiệp trong GDP năm 2030 lên trên 40%; giá trị gia tăng công nghiệp chế biến, chế tạo bình quân đầu người đạt trên 2.000 USD(16).

Quá trình đổi mới đòi hỏi phải có hệ thống pháp luật đồng bộ, tránh chồng chéo, bảo đảm cho sự phát triển. Vì vậy, Đại hội XIII quán triệt: “Xây dựng khung khổ pháp luật, môi trường thuận lợi thúc đẩy phát triển, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển kinh tế số; hỗ trợ, khuyến khích sự ra đời, hoạt động của những lĩnh vực mới, mô hình kinh doanh mới. Tập trung sửa đổi những quy định mâu thuẫn, chồng chéo, cản trở phát triển kinh tế. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, phân cấp, phân quyền, ủy quyền gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương, trách nhiệm cá nhân và nâng cao trách nhiệm phối hợp giữa các cấp, các ngành”(17). Đồng thời, tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính một cách quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả, nâng cao chất lượng môi trường kinh doanh, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, minh bạch. “Phấn đấu đến năm 2030 môi trường kinh doanh của Việt Nam được xếp vào nhóm 30 quốc gia hàng đầu”(18).

Thứ ba, quan điểm về phát triển giáo dục và đào tạo để phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu mới.

Đại hội XIII của Đảng đề ra định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030, đó là: “Tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút và trọng dụng nhân tài. Thúc đẩy nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng mạnh mẽ thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, chú trọng một số ngành, lĩnh vực trọng điểm, có tiềm năng, lợi thế để làm động lực cho tăng trưởng theo tinh thần bắt kịp, tiến cùng và vượt lên ở một số lĩnh vực so với khu vực và thế giới”(19).

Việt Nam đặt mục tiêu tham gia thị trường đào tạo nhân lực quốc tế, vì vậy, cần hoàn thiện cơ chế, chính sách để đẩy mạnh và nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ của các cơ sở giáo dục và đào tạo. “Gắn kết chặt chẽ giáo dục và đào tạo với nghiên cứu, triển khai, ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ mới; hình thành các trung tâm nghiên cứu xuất sắc, các nhóm đổi mới sáng tạo mạnh”(20).

Đại hội XIII khẳng định: “Đào tạo con người theo hướng có đạo đức, kỷ luật, kỷ cương, ý thức trách nhiệm công dân, xã hội; có kỹ năng sống, kỹ năng làm việc, ngoại ngữ, công nghệ thông tin, công nghệ số, tư duy sáng tạo và hội nhập quốc tế”(21). Như vậy, quá trình giáo dục cần chuyển từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; thay đổi từ học chủ yếu trên lớp sang đa dạng hình thức học tập, chú ý dạy và học trực tuyến, các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học; giáo dục trong nhà trường gắn liền với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội. “Chú trọng hơn giáo dục đạo đức, nhân cách, năng lực sáng tạo và các giá trị cốt lõi, nhất là giáo dục tinh thần yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc, truyền thống và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc tốt đẹp của người Việt Nam; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Gắn giáo dục tri thức, đạo đức, thẩm mỹ, kỹ năng sống với giáo dục thể chất, nâng cao tầm vóc con người Việt Nam”(22).

Đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục - đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút và trọng dụng nhân tài; thúc đẩy nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng mạnh mẽ thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, chú trọng một số ngành, lĩnh vực trọng điểm, có tiềm năng, lợi thế để làm động lực cho tăng trưởng theo tinh thần bắt kịp, tiến cùng và vượt lên ở một số lĩnh vực so với khu vực và thế giới.

Khởi nghiệp sáng tạo đang tạo được sự kết nối cộng đồng, lan tỏa khắp cả nước, việc hoàn thiện hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo có vai trò là môi trường nuôi dưỡng, thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo phát triển. Vì vậy, trong thời gian tới, cần thực hiện một số giải pháp để thúc đẩy hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng:

Một là, tiếp tục hoàn thiện thể chế về khởi nghiệp sáng tạo, bảo hộ quyền tài sản hợp pháp, quyền sở hữu trí tuệ; xây dựng hành lang pháp lý, tháo gỡ một số vấn đề trong việc huy động các nguồn lực nhằm tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nhân khởi nghiệp tiếp cận nguồn vốn; xây dựng một số thể chế liên quan đến những cơ chế đặc thù dành cho ứng dụng những mô hình kinh tế mới, những công nghệ mới trong các lĩnh vực, kể cả những lĩnh vực tiềm năng nhưng đầy thách thức như công nghệ về tài chính, thương mại điện tử, chuyển đổi số trong các lĩnh vực.

Hai là, xây dựng chiến lược, chính sách dài hạn, ngắn hạn ở cấp quốc gia và chính sách khai thác nguồn lực từng địa phương để các doanh nghiệp yên tâm đầu tư phát triển; xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích khởi nghiệp sáng tạo ở những ngành, lĩnh vực đầu tư cho xã hội, cộng đồng, lĩnh vực có tiềm năng và lợi thế phát triển, như nông nghiệp, du lịch, khám, chữa bệnh, công nghệ thông tin...; xây dựng cơ chế tạo điều kiện để các doanh nghiệp khởi nghiệp có điều kiện tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, thúc đẩy liên kết, hợp tác quốc tế, nâng cao năng lực cho khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo trong nước.

Ba là, hoàn thiện các chính sách hỗ trợ, thúc đẩy các cơ sở giáo dục, đào tạo để tạo nguồn doanh nhân khởi nghiệp trẻ có tư duy mới, sáng tạo, bản lĩnh, có đạo đức nghề nghiệp và được trang bị, bồi dưỡng đầy đủ kiến thức, kỹ năng quản trị kinh doanh hiện đại nhằm nâng cao chất lượng các dự án khởi nghiệp sáng tạo. Xây dựng chính sách hỗ trợ mạng lưới khởi nghiệp sáng tạo nhằm kết nối doanh nghiệp khởi nghiệp với các trường đại học, các viện nghiên cứu, chuyên gia tư vấn, vườn ươm khởi nghiệp, quỹ hỗ trợ của Nhà nước và cộng đồng, quỹ đầu tư mạo hiểm.

Bốn là, thúc đẩy chuyển đổi số trên tất cả các lĩnh vực, đẩy mạnh xây dựng, cập nhật, liên thông, kết nối các nền tảng số, cơ sở dữ liệu đồng bộ, thực chất vàphải được tiến hành thường xuyên, liên tục ở tất cả các cấp, các ngành, các địa phương có trọng tâm, trọng điểm trên cơ sở huy động sức mạnh tổng lực của cả hệ thống chính trị. Bên cạnh đó, hoàn thiện quy trình nghiệp vụ, số hóa hồ sơ, kết quả giải quyết thủ tục hành chính đã cung cấp trên môi trường mạng, kết nối các dịch vụ công trực tuyến với Cổng dịch vụ công quốc gia.

Năm là, khơi dậy niềm tin và tinh thần khởi nghiệp sáng tạo; tiếp tục tuyên truyền vai trò của khởi nghiệp sáng tạo đối với nền kinh tế là động lực đối với phát triển đất nước nhằm hình thành văn hóa khởi nghiệp sáng tạo, sẵn sàng chấp nhận rủi ro, thất bại, vun đắp cho thế hệ trẻ khát vọng, ý chí bền bỉ, lạc quan để vượt qua mọi khó khăn, thách thức; tuyên truyền vai trò của hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo một cách sâu rộng ở các địa phương nhằm dành sự ưu tiên phân bổ nguồn lực để hỗ trợ các hoạt động khởi nghiệp sáng tạo một cách quy mô, chuyên nghiệp, có sự kết nối ở địa phương và toàn quốc.

Theo lyluanchinhtri.vn

3. Thúc đẩy đổi mới sáng tạo để tăng trưởng kinh tế nhanh

Xây dựng chiến lược phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo là nhiệm vụ quan trọng của tất cả các bộ, ngành, địa phương. Trong quá trình triển khai, rất cần sự chủ động tham gia tích cực và luôn đồng hành của các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp... để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh hơn.

 

Kỹ sư nông nghiệp Công ty Declo Farm (tỉnh Bắc Ninh) kiểm tra tốc độ tăng trưởng của rau màu trồng trong nhà kính.

Theo đại diện Cục Phát triển thị trường và doanh nghiệp khoa học công nghệ (Bộ Khoa học và Công nghệ), Việt Nam có thị trường nội địa trẻ, sôi nổi với những tài năng công nghệ lớn và sự đổi mới liên tục đã trở thành địa chỉ hấp dẫn dòng vốn đầu tư khởi nghiệp trong khu vực Ðông Nam Á.

Trong năm 2022, Việt Nam ra mắt nhiều mạng lưới hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo cấp địa phương và cấp vùng, cho thấy nhiều "điểm sáng" cùng sự lớn mạnh của hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, khẳng định vị thế Việt Nam trong lĩnh vực khởi nghiệp.Hiện Việt Nam có hơn 200 quỹ đầu tư, hơn 100 tổ chức về thúc đẩy kinh doanh, hơn 130 trường đại học, cao đẳng có không gian hỗ trợ đổi mới sáng tạo, tạo ra bức tranh khá đầy đủ cho hệ sinh thái đổi mới sáng tạo tại Việt Nam.

Phong trào mới tại các địa phương

Mạng lưới khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo đang phát triển mạnh mẽ tại các địa phương trên cả nước. Các tỉnh, thành phố tích cực ứng dụng công nghệ thông tin trong việc chuyển đổi số, truy xuất nguồn gốc sản phẩm, sở hữu trí tuệ và các giải pháp phát triển kinh tế-xã hội bền vững trong các ngành, lĩnh vực. Trên bảng xếp hạng chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII), trong 12 năm liền, Việt Nam luôn có kết quả cao hơn so với mức độ phát triển, cho thấy hiệu quả trong việc chuyển các nguồn lực đầu vào thành kết quả đầu ra đổi mới sáng tạo.

Hiện Việt Nam có hơn 200 quỹ đầu tư, hơn 100 tổ chức về thúc đẩy kinh doanh, hơn 130 trường đại học, cao đẳng có không gian hỗ trợ đổi mới sáng tạo, tạo ra bức tranh khá đầy đủ cho hệ sinh thái đổi mới sáng tạo tại Việt Nam.

Việc thiết lập mạng lưới đổi mới sáng tạo quốc gia, trong đó có ba đại diện vùng là Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Ðà Nẵng là điểm nhấn kết nối, khẳng định vị thế Việt Nam trong khởi nghiệp.

Những năm gần đây, để hình thành, phát triển thị trường khoa học và công nghệ, Ðà Nẵng đã có chính sách đặc thù về hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ; hỗ trợ phát triển khởi nghiệp đổi mới sáng tạo; phát triển tài sản trí tuệ và hỗ trợ đăng ký xác lập quyền sở hữu trí tuệ, quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm hàng hóa...

Thông qua các chính sách này đã góp phần phát triển nguồn cung hàng hóa khoa học và công nghệ từ các viện, trường và gia tăng nhu cầu, năng lực tiếp cận, làm chủ công nghệ mới, công nghệ tiên tiến của các doanh nghiệp trên địa bàn. Các chính sách đã xác định mục tiêu lấy doanh nghiệp làm trung tâm, tăng cường hỗ trợ doanh nghiệp, doanh nghiệp khởi nghiệp, tạo liên kết, kết nối cung-cầu công nghệ, phát triển sản xuất, tạo ra sản phẩm mới, nâng cao chất lượng sản phẩm và thúc đẩy phát triển thị trường khoa học và công nghệ...

Ðà Nẵng hiện đạt tỷ lệ bình quân 2,1 doanh nghiệp công nghệ số/1.000 dân, là địa phương có tỷ lệ cao thứ hai cả nước (sau Thành phố Hồ Chí Minh); có 44 nghìn người đang hoạt động trong lĩnh vực công nghệ thông tin (chiếm 7,5% lực lượng lao động). Bên cạnh đó, Ðà Nẵng là địa phương có tốc độ internet nhanh nhất Việt Nam với 41,75 Mb/giây; mạng dữ liệu di động phủ sóng 100% khu vực dân cư...

Tuy nhiên, theo đánh giá của Phó Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo Ðà Nẵng, Trưởng Làng công nghệ Metaverse Việt Nam Võ Ðức Anh, thị trường khoa học và công nghệ của thành phố đang từng bước hình thành nhưng chưa sôi động, thiếu vắng các tổ chức trung gian mạnh, nhất là các tổ chức có năng lực về tư vấn, định giá, xúc tiến, kết nối chuyển giao công nghệ. Lượng giao dịch hàng hóa công nghệ chưa nhiều, tốc độ phát triển chậm và thị trường còn nhỏ lẻ; việc hình thành các doanh nghiệp khoa học và công nghệ từ thương mại hóa các kết quả nghiên cứu khoa học còn hạn chế.

Thời gian qua, tỉnh Sóc Trăng xác định các nhiệm vụ khoa học và công nghệ theo hướng chú trọng giải quyết các nhu cầu cấp thiết của địa phương. Kết quả là nhiều nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ được đưa vào sản xuất và đời sống, đã góp phần thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh.

Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ Vũ Thị Hiếu Ðông cho biết, tỉnh phấn đấu đến năm 2025 đạt mục tiêu năng suất lao động tăng 6,2- 6,5%/năm; năng suất các nhân tố tổng hợp trong tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt khoảng 40% GRDP. Tỉnh cũng phấn đấu tối thiểu 40% sản phẩm, dịch vụ chủ lực, đặc thù của tỉnh và sản phẩm gắn với Chương trình mỗi xã một sản phẩm của tỉnh được hỗ trợ đăng ký bảo hộ, quản lý phát triển tài sản trí tuệ, kiểm soát nguồn gốc và chất lượng sau khi được bảo hộ; hỗ trợ tất cả các doanh nghiệp có nhu cầu tìm kiếm công nghệ, kết nối với đối tác trong và ngoài nước…

Ðể đạt các mục tiêu nêu trên, tỉnh Sóc Trăng đề xuất Bộ Khoa học và Công nghệ hỗ trợ tỉnh được tham gia, thụ hưởng kết quả nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ từ các nhiệm vụ khoa học và công nghệ quốc gia do Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, trọng tâm là đổi mới sáng tạo; phát triển các thế mạnh liên quan đến khoa học kỹ thuật của địa phương. Ðồng thời, hỗ trợ tỉnh xây dựng các mô hình ứng dụng, các giải pháp công nghệ mới trong các lĩnh vực: trồng trọt, nuôi trồng thủy sản, quản lý khai thác biển…; triển khai các dự án gắn với các chương trình khoa học và công nghệ quốc gia; xây dựng và quản lý nhãn hiệu chứng nhận "Sóc Trăng" cho sản phẩm gạo thuộc giống lúa ST24 và ST25 trên địa bàn tỉnh, đưa nhãn hiệu đã được bảo hộ vào chương trình, kế hoạch hỗ trợ bảo hộ nhãn hiệu cho sản phẩm xuất khẩu tiềm năng của Việt Nam ở nước ngoài…

Đổi mới sáng tạo thúc đẩy phát triển kinh tế

Từ năm 2017, Việt Nam sử dụng Bộ chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu do Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) công bố hằng năm nhằm xác định các điểm mạnh, điểm yếu của quốc gia để đưa ra các giải pháp, biện pháp cải thiện phù hợp, cũng như kịp thời xây dựng, ban hành các chính sách liên quan nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội.

Ðến nay, Việt Nam là một trong số ít những quốc gia thu nhập trung bình thấp được WIPO ghi nhận có tốc độ bắt kịp về đổi mới sáng tạo nhanh nhất. Bộ chỉ số đánh giá theo 80 tiêu chí, tùy từng địa phương để thay đổi tiêu chí cho phù hợp. Kết quả áp dụng tại 20 tỉnh, thành phố cho thấy có 18 địa phương được lọt vào xếp hạng. Thủ đô Hà Nội có điểm số cao nhất là 61.07 (xếp hạng 1), tiếp theo là Ðà Nẵng (56.69, hạng 2) và Thành phố Hồ Chí Minh (52.27, hạng 3); Sơn La là địa phương có điểm số thấp nhất (26.49, xếp hạng 18).

Ðến nay, Việt Nam là một trong số ít những quốc gia thu nhập trung bình thấp được WIPO ghi nhận có tốc độ bắt kịp về đổi mới sáng tạo nhanh nhất.

Ðể thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội dựa trên đổi mới sáng tạo, Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Trần Văn Tùng cho rằng, các địa phương cần sử dụng các kết quả đánh giá vào công tác, chỉ đạo điều hành, xây dựng và thực hiện các biện pháp, giải pháp thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội, góp phần nâng cao năng lực kinh doanh, năng lực cạnh tranh, năng lực đổi mới sáng tạo của các địa phương và quốc gia.

Bộ Khoa học và Công nghệ sẽ tiếp tục phối hợp với WIPO và các đơn vị, tổ chức liên quan để triển khai đánh giá, sử dụng Bộ chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu; hỗ trợ các địa phương trong việc tìm hiểu phương pháp, cách tính toán, ý nghĩa của các chỉ số xếp hạng và cách thức thu thập, cung cấp thông tin phục vụ đánh giá, xếp hạng; xây dựng các nhóm chuyên gia theo từng lĩnh vực để thiết kế các chỉ số phù hợp với thông lệ quốc tế, bảo đảm tính khả thi trong thu thập dữ liệu và phục vụ tính toán, xếp hạng. Hiện Bộ Khoa học và Công nghệ cũng đang đề xuất Chính phủ cho triển khai chính thức Bộ chỉ số đổi mới sáng tạo từ năm 2023 trên phạm vi toàn quốc.

Bộ chỉ số đổi mới sáng tạo cấp địa phương được kỳ vọng sẽ là công cụ hữu hiệu để mỗi địa phương trên cả nước xác định rõ điểm mạnh, điểm yếu, các yếu tố tiềm năng và các điều kiện cần thiết để thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội dựa trên khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Theo nhandan.vn

4. Chính sách đổi mới sáng tạo khu vực công

Việt Nam đang thiếu khung tiêu chí đo lường cho đổi mới sáng tạo nhất là cho các đơn vị, cơ quan nhà nước thuộc khu vực công.

 

Năm 2022 là năm thứ 2 liên tiếp, Trường ĐH Ngoại thương được vinh danh tổ chức có tác động xã hội mạnh mẽ tại Cuộc thi Toàn cầu Sáng tạo Kinh doanh Xã hội

Quyết định số 569/QĐ - TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 11/5/2022 về chiến lược phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo đến năm 2030 đã nhấn mạnh việc hoàn thiện các mạng lưới trung tâm đổi mới sáng tạo, mạng lưới khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, và các tổ chức trung gian hỗ trợ thúc đẩy đổi mới sáng tạo thuộc khu vực công.

Động lực cho đổi mới

Nhiều tỉnh/thành hoặc các trường đại học/cao đẳng trong cả nước đã thành lập trung tâm ươm tạo và hỗ trợ khởi nghiệp, hoặc ươm tạo và sáng tạo khởi nghiệp, trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp và khởi nghiệp… Các trung tâm này đều trực thuộc cấp sở ở địa phương hoặc trực tiếp ban giám hiệu điều hành triển khai nhiều hoạt động đổi mới sáng tạo (ĐMST).

PGS. TS Nguyễn Thị Thu Hà, Giám đốc Trung tâm Sáng tạo và Ươm tạo FTU -FIIS của Đại học Ngoại thương cho biết: “Trường đã có những nỗ lực đổi mới sáng tạo ngay chính công việc hàng ngày. Nhà trường đã tiếp cận ĐMST vẫn là ở những công việc đang làm như đào tạo, nghiên cứu, tổ chức các hoạt động liên quan tới cộng đồng. Cách thức, chính sách của nhà trường đề ra khi triển khai được chú trọng hơn nhằm phát huy nguồn lực, tối ưu kết quả”.

Không thể phủ nhận rằng đổi mới sáng tạo (ĐMST) trong khu vực công giúp giải quyết hiệu quả thách thức cho các đơn vị và doanh nghiệp, góp phần tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững. Ông Đỗ Xuân Hoài – Phó Giám đốc Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia - NIC cho rằng ĐMST đã tạo động lực cho 65% trường học và viện nghiên cứu thúc đẩy triển khai hoạt động này, 58% nhà đầu tư tư nhân sẽ hỗ trợ thực hiện để ĐMST. Đây là lý do ĐMST cần khuyến khích và thúc đẩy ở các đơn vị.

Đề xuất khung đo lường

Đổi mới sáng tạo trở nên quan trọng khi các cách tiếp cận truyền thống không giải quyết được những vấn đề phức tạp, nan giải mà xã hội phải đối mặt. Nhiều quốc gia trên thế giới đã có khung đo lường đổi mới sáng tạo ở khu vực công nhằm cải thiện và đẩy nhanh hiệu quả của đổi mới sáng tạo quốc gia. Vì vậy việc xây dựng khung tiêu chí đổi mới sáng tạo cho khu vực công tại Việt Nam là cần thiết trong bối cảnh nền kinh tế số đang phát triển mạnh mẽ.

Theo TS Phạm Thu Trang, Chuyên gia đổi mới sáng tạo trong khu vực công, Việt Nam hiện không có bộ chỉ số liên quan đến đổi mới sáng tạo khu vực công. Các chính sách đổi mới sáng tạo đang bị thiên lệch về khởi nghiệp và phân tán ở đâu đó trong những văn bản lồng ghép của các ngành, các lĩnh vực mà chưa có qui định chính sách riêng cho đổi mới sáng tạo.

Vì vậy, TS Phạm Thu Trang cho rằng: Các chiến lược quan trọng đề cập đến đổi mới sáng tạo nên có chính sách riêng cho khu vực công. Coi đây là cơ sở pháp lý xây dựng bộ chỉ số khu vực công và để thúc ép các đơn vị công thực hiện đổi mới sáng tạo.

Ngoài ra, khung tiêu chí đổi mới sáng tạo nên được khảo sát định kỳ hàng năm. Các đơn vị có thể dựa vào đó làm căn cứ đổi mới sáng tạo trong khu vực mình, mở rộng đo lường đổi mới sáng tạo khu vực công để làm thường niên. Quá trình xây dựng khung tiêu chí cũng cần cập nhật, tham khảo của quốc tế. “Hiện Việt Nam chưa có chính sách cho đổi mới sáng tạo, nên chúng tôi kiến nghị cần kiến tạo thể chế, ban hành một chính sách chung cho đổi mới sáng tạo. Từng ngành cũng cần có những văn bản qui định riêng cho đổi mới sáng tạo” – TS Phạm Thu Trang đề xuất.

Theo diendandoanhnghiep.vn

5. NIC khảo sát nhu cầu hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới sáng tạo khởi nghiệp

Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia (NIC) thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang thực hiện cuộc khảo sát nhu cầu hỗ trợ của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo mong muốn tham gia hệ sinh thái đổi mới sáng tạo của Trung tâm…

 

Khảo sát nhằm làm rõ những khó khăn, vướng mắc và các nhu cầu trợ cụ thể của doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh, tiếp cận vốn và kết nối các nguồn lực hỗ trợ khác

Với mong muốn thực hiện hiệu quả các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp về đổi mới sáng tạo, NIC sẽ thực hiện cuộc khảo sát nhu cầu hỗ trợ thực tế tại các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi sáng tạo mong muốn tham gia hệ sinh thái đổi mới sáng tạo của NIC.

Nội dung khảo sát nhằm làm rõ những khó khăn, vướng mắc và các nhu cầu trợ cụ thể của doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh, tiếp cận vốn và kết nối các nguồn lực hỗ trợ khác.

Những thông tin tổng hợp qua bảng khảo sát sẽ là đầu vào giúp Trung tâm xây dựng các cơ chế ưu đãi, đề xuất một số chính sách thu hút vốn đầu tư vào khởi nghiệp sáng tạo, hoàn thiện các dịch vụ hỗ trợ tại Cổng dịch vụ một cửa của Trung tâm.

Các doanh nghiệp tham gia khảo sát sẽ đồng thời được tham gia hệ sinh thái kết nối của Trung tâm, trong đó ưu tiên tiếp cận Quỹ đầu tư trong và ngoài nước; các Tập đoàn; Viện; Trường Đại học; các Tổ chức Quốc tế và Ươm tạo doanh nghiệp, mạng lưới chuyên gia trí thức của Việt Nam tại các quốc gia phát triển trên thế giới...

Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia mong muốn doanh nghiệp tham gia cung cấp thông tin, đóng góp ý kiến cụ thể để Trung tâm có cơ sở hoàn thiện các hoạt động hỗ trợ đổi mới sáng tạo trong thời gian tới. Doanh nghiệp có thể tham gia khảo sát tại: https://www.surveymonkey.com/r/QBTQ93M.

 

Thời gian hoàn thiện khảo sát trước ngày 15/02/2023

Bảng khảo sát gồm 4 phần: Thông tin chung về doanh nghiệp (phần 1); Các khó khăn chung doanh nghiệp gặp phải (phần 2);  Các khó khăn liên quan tới chính sách (phần 3) và kỳ vọng về các chính sách hỗ trợ và ưu đãi (phần 4).

Đặc biệt, để có được các thông tin khảo sát chính xác nhất, NIC đề xuất sự tham gia của các chủ doanh nghiệp hoặc cấp quản lý nắm rõ thông tin hoạt động của doanh nghiệp. Trung tâm sẽ tuân thủ các quy định về bảo mật thông tin mà người điền khảo sát cung cấp.

Theo vneconomy.vn

BÀI VIẾT LIÊN QUAN

  • slideshow_large
  • slideshow_large
  • slideshow_large
  • slideshow_large
  • slideshow_large
Truy cập hôm nay : 16
Truy cập trong 7 ngày :38
Tổng lượt truy cập : 6,406