Banner Ngày 25/4/2024
Thông báo về kết quả trúng tuyển kỳ tuyển dụng viên chức của Trung tâm Ứng dụng Tiến bộ Khoa học và Công nghệ tỉnh Sóc Trăng năm 2023. ( 04/03/2024 )
 10/12/2022 Lượt xem: 304

1. Cảm biến sinh học phát hiện bệnh thối tiềm ẩn trong khoai tây

Bất chấp những tiến bộ trong việc tăng sản lượng lương thực, một nửa lượng lương thực thu hoạch trên thế giới bị mất đi do thối rữa do vi sinh vật gây ra. Thực vật thải ra các hợp chất hữu cơ dễ bay hơi khác nhau vào môi trường xung quanh, có thể được theo dõi để phát hiện sớm bệnh thực vật và ngăn ngừa thất thoát thực phẩm. 

 

Các nhà nghiên cứu đã phát triển một cảm biến phát hiện bệnh thối ở khoai tây và ngăn chặn bệnh phát triển và lây lan sang các cây khác.

Nghiên cứu mới do Đại học Hebrew ở Jerusalem (HU) và Tổ chức Nghiên cứu Nông nghiệp của Israel (Viện Volcani) dẫn đầu đã nêu chi tiết về thành công của một cảm biến sinh học phát hiện sớm bệnh tiềm ẩn trong củ khoai tây, một trong những ngành xuất khẩu hàng đầu của Israel với sản lượng 700.000 tấn/năm. 

Nông dân Israel nhập khẩu khoai tây châu Âu để trồng ở Israel. Tuy nhiên, một tỷ lệ nhất định trong số chúng mang bệnh bên trong - có thể nhìn thấy hoặc không nhìn thấy - gây thối và làm giảm đáng kể chất lượng của khoai tây. Liên minh Đại học Hebrew-Volcani sắp thay đổi điều đó. Họ đã phát triển một cảm biến phát hiện bệnh và có thể được sử dụng để ngăn chặn thối rữa phát triển và lây lan. Nghiên cứu được xuất bản trong ấn bản sắp tới của Talanta, được thực hiện bởi Tiến sĩ Dorin Harpaz và nghiên cứu sinh của cô ấy là Boris Veltman tại Khoa Nông nghiệp, Thực phẩm và Môi trường của Đại học Hebrew HU, dưới sự giám sát của Tiến sĩ Evgeni Eltzov thuộc Viện Volcani. Nhóm nghiên cứu đã hợp tác với Tiến sĩ Sarit Melamed của Viện Volcani và Tiến sĩ Zipora Tietel, và Tiến sĩ Leah Tsror từ Trung tâm Nghiên cứu Gilat. 

Cảm biến dựa trên kỹ thuật sinh học và quang học thông minh. Khi cảm biến tiếp xúc với khoai tây bị nhiễm bệnh, một hợp chất vi khuẩn bên trong sẽ sáng lên - với cường độ phát quang cho biết nồng độ và thành phần của thối. Eltzov giải thích: “Cường độ ánh sáng do bảng điều khiển vi khuẩn phát ra giúp nó có thể phân tích nhanh chóng và định lượng được các đặc điểm của căn bệnh mà cảm biến có thể ngửi thấy trước khi xuất hiện các triệu chứng có thể nhìn thấy được”. 

Harpaz cho biết thêm: “Bộ cảm biến sinh học mà chúng tôi phát triển sẽ giúp xác định những củ khoai tây bị bệnh chưa có bất kỳ dấu hiệu bên ngoài nào và giữ chúng tránh xa những củ khỏe mạnh, do đó ngăn ngừa bệnh thối rữa phát triển hoặc lây lan sang những cây khỏe mạnh khác”. 

Để hình thành bảng điều khiển vi khuẩn, nhóm nghiên cứu đã tạo ra một hợp chất gồm bốn loại vi khuẩn được biến đổi gien để đo độc tính sinh học. Trong nghiên cứu này, cảm biến sinh học đã phát hiện bệnh trước khi có bất kỳ dấu vết nào có thể nhìn thấy được và khiến cảm biến quang học sáng gấp đôi so với cảm biến ở khoai tây không bị nhiễm bệnh. 

Theo các nhà nghiên cứu, việc phát hiện sớm bệnh - trước khi khoai tây được xuất khẩu sang thị trường nước ngoài hoặc trồng lại sẽ mang lại lợi thế đáng kể cho người trồng thực phẩm. Harpaz kết luận: “Cảm biến sinh học có thể được sử dụng để xác định nhanh chóng bệnh thối tiềm ẩn trong khoai tây, tạo điều kiện quản lý sau thu hoạch tốt hơn và giảm lãng phí thực phẩm - đặc biệt quan trọng trong bối cảnh khủng hoảng lương thực toàn cầu hiện nay”. 

Theo Sciencedaily

2. Nghiên cứu mới phát hiện hệ thống miễn dịch thực vật có thể thích ứng với những điều kiện bất thuận không sự sống

 

Các thụ thể nhận dạng mẫu mang lại khả năng chịu căng thẳng do muối ở Arabidopsis thaliana sau khi nhận biết các mẫu phân tử liên quan đến tổn thương cognate. A, Kiểu hình của cây con A. thaliana (trái) sau 6 ngày tiếp xúc với 150 mM NaCl và (phải) 5 ngày tiếp xúc với 175 mM NaCl, có hoặc không xử lý trước Pep2 hoặc Pep1. B, Tỷ lệ sống sót (trung bình ± sai số tiêu chuẩn của giá trị trung bình [s.e.m.], n ≥ 50, hai lần lặp lại) của cây con sau khi chúng tiếp xúc với 150 mM NaCl trong thời gian được chỉ định, có và không có 0,1 µM Pep1 tiền xử lý. Dấu hoa thị *** và ** biểu thị P <0,001 và 0,01 tương ứng, sử dụng phép thử t hai phía so với giá trị tương ứng của cây được xử lý mô hình. C, Trọng lượng tươi trung bình (trung bình ± s.e.m., n ≥ 30, bốn lần lặp lại) của cây con sau 5 ngày tiếp xúc với 150 mM NaCl, có và không có 0,1 µM Pep1 tiền xử lý. Dấu hoa thị (*) cho biết P <0,05 khi sử dụng phép thử t hai bên so với giá trị tương ứng của cây được xử lý mô hình; N.S. = không đáng kể. D, Hàm lượng diệp lục (trung bình ± s.e.m., n ≥ 30, bốn lần lặp lại) trong cây con sau 5 ngày tiếp xúc với 150 mM NaCl, có và không có 0,1 µM Pep1 tiền xử lý. Các chữ cái trên thanh chỉ ra P <0,05 bằng cách sử dụng các bài kiểm tra sự khác biệt có ý nghĩa trung thực (HSD) của Tukey. E, Kiểu hình của cây con sau 5 ngày tiếp xúc với 175 mM NaCl, có hoặc không có 0,1 µM của flg22 hoặc elf18 tiền xử lý. F, Tỷ lệ sống (trung bình ± s.e.m., n ≥ 20, hai lần lặp lại) của cây con sau 6 ngày tiếp xúc với 175 mM NaCl, có và không có 0,1 μM flg22 hoặc elf18 tiền xử lý. Dấu hoa thị (**) cho biết P <0,01 bằng cách sử dụng các bài kiểm tra HSD của Tukey so với giá trị của cây dại (WT) được xử lý mô hình. Nguồn: Molecular Plant-Microbe Interactions. 

Khi chúng ta nghĩ về thực vật, cụm từ "Căng thẳng xuất hiện" thường không được nghĩ đến. Tuy nhiên, sau tất cả, chúng được xử lý như miễn thanh toán hóa đơn và giải quyết các câu hỏi hiện sinh. Do đó, những thay đổi về môi trường - cả sự sống (yếu tố sinh học) và không sự sống (yếu tố phi sinh học) - tạo ra các yếu tố bất lợi, gây ảnh hưởng đáng kể cho thực vật. Do đó, các phương pháp mới để cải thiện khả năng chống chịu và miễn dịch của cây trồng trong bối cảnh biến đổi khí hậu là rất quan trọng. 

Khi các thụ thể miễn dịch trên bề mặt tế bào của thực vật phát hiện ra các dấu hiệu phân tử thông báo những kẻ tấn công sinh vật (chẳng hạn như vi khuẩn, nấm, côn trùng hoặc những loài khác), chúng hình thành phức hợp thụ thể với các protein đối tác, báo hiệu sự bảo vệ của tế bào chống lại mầm bệnh. Một số dấu hiệu phân tử này cũng được tạo ra khi các tác nhân gây căng thẳng phi sinh học làm hư hỏng các tế bào thực vật. Chúng bao gồm các peptit gây hại hoặc các mảnh vụn tế bào, biểu hiện của sự hư hại thực vật. Tín hiệu miễn dịch phản ứng với căng thẳng phi sinh học này thiếu các nguyên tắc và cơ chế quản lý rõ ràng cho đến khi công bố nghiên cứu gần đây do Eliza Loo thuộc Viện Khoa học và Công nghệ Nara dẫn đầu. 

Kết quả được công bố trên tạp chí Molecular Plant-Microbe Interactions cho thấy tín hiệu miễn dịch cũng có thể tăng cường khả năng chống chịu của thực vật đối với các tác nhân gây căng thẳng do yếu tố phi sinh học như độ mặn tăng cao như thế nào. Tác giả bài báo Yusuke Saijo nhận xét: “Kích hoạt trước thụ thể miễn dịch cho phép thực vật tăng biên độ và tái lập trình biểu hiện gen cảm ứng mặn khi tiếp xúc với độ mặn cao”, giúp tăng cường khả năng chịu mặn. 

Điều đáng ngạc nhiên là họ phát hiện ra các thụ thể miễn dịch và các thành phần truyền tín hiệu tạo ra khả năng chịu mặn ngay cả ở những cây trồng bị các vi khuẩn không gây bệnh đe dọa. Điều này cho thấy thực vật có thể cảm nhận và bắt đầu các phản ứng thích ứng với các căng thẳng phi sinh học, khi phát hiện ra những thay đổi trong các dấu hiệu do các vi sinh vật sống trong thực vật thể hiện cùng với sự biến động của điều kiện môi trường và có được một loạt các chiến thuật chống chịu với những điều kiện bất thuận. 

“Phát hiện kết quả này đã mở rộng quan điểm của chúng tôi về cách thực vật cảm nhận và thích ứng với những thay đổi môi trường, đặc biệt là muối và các căng thẳng thẩm thấu đe dọa sản xuất cây trồng trong nông nghiệp. Điều đó cũng đưa ra một ý tưởng mới rằng các thụ thể miễn dịch giám sát các vi sinh vật sống trong thực vật, từ đó điều chỉnh sự thích nghi của thực vật với môi trường”, Saijo giải thích. Nguồn cung cấp lương thực toàn cầu của chúng ta phụ thuộc vào sức sinh trưởng của thực vật và khả năng vượt qua các tác nhân gây căng thẳng. 

Nghiên cứu này đặt nền tảng cho các nghiên cứu sâu hơn liên kết tín hiệu căng thẳng sinh học và phi sinh học trong khoa học thực vật. Hiểu được mối quan hệ phức tạp sâu sắc giữa thực vật với môi trường sự sống và không sự sống xung quanh chúng là điều cần thiết để thúc đẩy sức khỏe thực vật và cuối cùng là sức khỏe con người. 

Theo Phys.org

3. Ánh sáng và nhiệt độ kết hợp với nhau ảnh hưởng như thế nào đến sự phát triển của cây

Cây dài ra và uốn cong để đảm bảo tiếp cận với ánh sáng mặt trời. Mặc dù đã quan sát hiện tượng này trong nhiều thế kỷ nhưng các nhà khoa học vẫn chưa hiểu hết về nó. Giờ đây, các nhà khoa học của Salk đã phát hiện ra rằng hai yếu tố thực vật - protein PIF7 và hormone tăng trưởng auxin - là những tác nhân thúc đẩy tăng trưởng khi cây được che bóng bởi tán cây và tiếp xúc với nhiệt độ ấm cùng một lúc. 

 

Tế bào Arabidopsis thaliana (trên) và cây con (dưới) trong các điều kiện ánh sáng và nhiệt độ khác nhau. Các cây con (hình ở ngoài cùng bên phải) cho thấy sự phát triển nhanh chóng khi phản ứng với bóng râm và nhiệt độ ấm áp. Nguồn: Đại học Salk.

Phát hiện được công bố trên tạp chí Nature Communications vào ngày 29 tháng 8 năm 2022, sẽ giúp các nhà khoa học dự đoán cách thực vật sẽ ứng phó với biến đổi khí hậu và tăng năng suất cây trồng bất chấp sự gia tăng nhiệt độ toàn cầu có hại cho năng suất. 

Tác giả nghiên cứu, Giáo sư Joanne Chory, Giám đốc Phòng thí nghiệm Sinh học Tế bào và Phân tử Thực vật của Salk và Howard, cho biết: “Hiện tại, chúng tôi trồng cây trồng ở một số mật độ nhất định, nhưng phát hiện của chúng tôi chỉ ra rằng chúng tôi sẽ cần giảm mật độ này để tối ưu hóa sự tăng trưởng khi khí hậu của chúng tôi thay đổi. Hiểu cơ sở phân tử về cách thực vật phản ứng với ánh sáng và nhiệt độ sẽ cho phép chúng tôi tinh chỉnh mật độ cây trồng theo cách cụ thể để dẫn đến năng suất tốt nhất”. 

Trong quá trình nảy mầm, cây con nhanh chóng kéo dài thân để xuyên qua lớp đất che phủ đón ánh sáng mặt trời càng nhanh càng tốt. Thông thường, thân cây sẽ chậm phát triển sau khi tiếp xúc với ánh sáng mặt trời. Nhưng thân cây có thể dài ra nhanh chóng trở lại nếu cây đang cạnh tranh với các cây xung quanh về ánh sáng mặt trời, hoặc phản ứng với nhiệt độ ấm áp để tăng khoảng cách giữa mặt đất nóng và lá của cây. Trong khi cả hai điều kiện môi trường - bóng râm của tán và nhiệt độ ấm - đều tạo ra sự phát triển của thân, chúng cũng làm giảm năng suất. 

Trong nghiên cứu này, các nhà khoa học đã so sánh đồng thời các cây mọc trong bóng râm và nhiệt độ ấm áp - một điều kiện bắt chước mật độ cây trồng cao và sự thay đổi khí hậu. Các nhà khoa học đã sử dụng mô hình cây Arabidopsis thaliana, cũng như cà chua và một loại cây họ hàng gần của cây thuốc lá, vì họ muốn xem liệu cả ba loài thực vật có bị ảnh hưởng tương tự bởi điều kiện môi trường này hay không. 

Trên cả ba loài, nhóm nghiên cứu nhận thấy rằng các cây này phát triển cực cao khi đồng thời cố gắng tránh bóng râm tạo ra bởi các cây lân cận và tiếp xúc với nhiệt độ ấm hơn. Ở cấp độ phân tử, các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng yếu tố phiên mã PIF7, một loại protein giúp kích hoạt các gien bật và tắt, là yếu tố chi phối thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh chóng. Họ cũng phát hiện ra rằng hormone tăng trưởng auxin tăng lên khi cây trồng phát hiện ra các cây lân cận, giúp thúc đẩy sự phát triển để đáp ứng với nhiệt độ ấm hơn. Con đường PIF7-auxin tổng hợp này cho phép cây trồng phản ứng với môi trường của chúng và thích nghi để tìm kiếm các điều kiện phát triển tốt nhất. 

Một yếu tố phiên mã liên quan, PIF4, cũng kích thích sự kéo dài của thân cây khi nhiệt độ ấm. Tuy nhiên, khi bóng râm và nhiệt độ tăng được kết hợp, yếu tố này không còn đóng vai trò quan trọng nữa. 

Tác giả đầu tiên Yogev Burko, nhà nghiên cứu nhân viên Salk và trợ lý Giáo sư tại Tổ chức Nghiên cứu Nông nghiệp tại Israel cho biết: Thực tế là PIF7 là động lực chính thúc đẩy sự phát triển của cây trồng là một bất ngờ thực sự. Với kiến ​​thức mới này, chúng tôi hy vọng sẽ điều chỉnh phản ứng tăng trưởng này ở các loại cây trồng khác nhau để giúp chúng thích ứng với biến đổi khí hậu. 

Các nhà nghiên cứu tin rằng có một tác nhân khác, vẫn chưa được phát hiện, đang thúc đẩy tác dụng của PIF7 và auxin. Họ hy vọng sẽ khám phá yếu tố chưa biết này trong các nghiên cứu trong tương lai. 

Chory, người đồng chỉ đạo Sáng kiến ​​Khai thác Thực vật của Salk và giữ chức Chủ tịch Sinh học Thực vật, cho biết: “Nhiệt độ toàn cầu đang tăng lên, vì vậy chúng ta cần các loại cây lương thực có thể phát triển mạnh trong những điều kiện mới này. Chúng tôi đã xác định các yếu tố chính điều chỉnh sự phát triển của thực vật trong thời gian nhiệt độ ấm áp, điều này sẽ giúp chúng tôi phát triển các loại cây trồng có năng suất tốt hơn để cung cấp lương thực cho các thế hệ tương lai”.

 Theo Sciencedaily

 

4. Thực vật có thể đo cường độ căng thẳng do muối

 

Như một phản ứng tức thời với nồng độ muối (NaCl) tăng cao, nồng độ canxi trong dịch bào của một nhóm tế bào cụ thể tăng lên trong vòng một phút. Được hiển thị bằng màu sắc: đỏ (nồng độ cao nhất)> vàng> xanh lá cây> xanh lam. Nguồn: AG Kudla. 

Điều kiện môi trường không thuận lợi gây căng thẳng đáng kể đối với thực vật. Hàm lượng muối cao (dạng NaCl) trong đất chỉ là một yếu tố gây căng thẳng có tác động tiêu cực đến cây trồng. Nhiễm mặn là một vấn đề nghiêm trọng trong nông nghiệp, đặc biệt là ở các vùng khô hạn trên thế giới. Các nhà sinh học tại Đại học Münster lần đầu tiên phát hiện ra rằng căng thẳng do muối kích hoạt tín hiệu canxi trong một nhóm tế bào đặc biệt ở rễ cây và những tín hiệu này tạo thành một "góc cảm nhận natri". Ngoài ra, các nhà nghiên cứu đã xác định một protein liên kết canxi (CBL8) góp phần vào khả năng chịu mặn đặc biệt trong điều kiện căng thẳng mặn nghiêm trọng. Kết quả của nghiên cứu đã được công bố trên tạp chí Developmental Cell

Căng thẳng mặn là do sự tích tụ của nồng độ muối quá mức trong đất. Điều này ức chế sự phát triển của cây và cuối cùng có thể dẫn đến chết cây. Vì lý do này, các nhà nghiên cứu thực vật quan tâm đến việc hiểu rõ hơn về căng thẳng mặn để lai tạo các loại cây chịu mặn. GS. Jörg Kudla và đồng nghiệp tại Viện Sinh học và Công nghệ Sinh học Thực vật tại Đại học Münster đã nghiên cứu về cách thực vật đo cường độ căng thẳng do muối và cách chúng phản ứng với nó. Cây mô hình mà họ sử dụng để thử nghiệm là cải xoong (Arabidopsis thaliana), là một thành viên của nhóm thực vật có hoa lớn nhất - họ cây thập tự, hay họ Cải. Chúng bao gồm nhiều loại cây thực phẩm và cây làm thức ăn gia súc như bắp cải, mù tạt và củ cải. 

Jörg Kudla nhận xét: “Trước hết, chúng tôi đã kiểm tra rễ cây Arabidopsis xem liệu chúng có bất kỳ loại tế bào nào sẽ phản ứng đặc biệt với sự căng thẳng của muối hay không, hoặc liệu toàn bộ rễ có biểu hiện phản ứng đồng nhất hay không. Chúng tôi cũng đã tiến hành điều tra để xem liệu cường độ căng thẳng do muối được phản ánh một cách định lượng trong cường độ của tín hiệu canxi”. 

Kết quả đã làm các chuyên gia ngạc nhiên: Mặc dù toàn bộ hệ thống rễ của thực vật bị căng thẳng, nhưng chỉ có một nhóm tế bào cụ thể phản ứng - và chỉ nhóm này hình thành cái gọi là tín hiệu canxi tế bào oligo. Nhóm tế bào này nằm trong vùng biệt hóa của rễ cây và chỉ được hình thành bởi vài trăm tế bào. Chỉ để so sánh: một rễ cây có hàng nghìn tế bào. Các nhà nghiên cứu gọi khu vực này là "góc cảm nhận natri".

Kudla giải thích: “Nhóm tế bào này không thể nhìn thấy được và chúng ta chỉ có thể phân biệt chúng về mặt chức năng với các tế bào khác bằng công nghệ cảm biến sinh học độ phân giải cao. Đó là một khám phá tình cờ vô cùng ý nghĩa”. Nguyên nhân là do tín hiệu canxi sơ cấp được hình thành trong các tế bào chuyên biệt về chức năng này. Trong quá trình này, các nhà sinh học thực vật phát hiện ra rằng mức độ căng thẳng do muối càng lớn thì tín hiệu canxi càng mạnh. 

Nói cách khác, thực vật có thể cung cấp thông tin cho sinh vật về cường độ của căng thẳng gặp phải. Điều này dẫn đến câu hỏi làm thế nào tế bào thực vật có thể phân biệt tín hiệu canxi yếu và mạnh để có thể phản ứng phù hợp. Nói chung, tín hiệu canxi được giải mã bởi các protein liên kết canxi khác nhau hoạt động như cảm biến canxi. 

Protein CBL quan trọng đối với khả năng chịu mặn

Ở thực vật, nhiệm vụ quan trọng này thường được thực hiện bởi cái gọi là protein CBL (giống calcineurin B). Từ lâu, người ta đã biết rằng protein CBL4 rất quan trọng đối với khả năng chịu mặn và những đột biến tương ứng không có bất kỳ protein CBL4 nào hoạt động cực kỳ nhạy cảm với căng thẳng do muối. Trong công trình của mình, các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng các đột biến của một protein CBL khác - CBL8 - cũng làm giảm khả năng chịu mặn. Tuy nhiên, đột biến CBL8 - trái ngược với đột biến CBL4 - chỉ biểu hiện sự ức chế tăng trưởng khi bị căng thẳng mặn nghiêm trọng. Sau khi thực hiện các phân tích sinh hóa, các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng nồng độ canxi cao sẽ kích hoạt protein CBL8 - trong khi protein CBL4 cũng hoạt động ở nồng độ canxi thấp hơn. TS. Leonie Steinhorst giải thích thêm: “Chỉ trong điều kiện căng thẳng do độ mặn cao, CBL8 mới giúp bơm muối ra khỏi cây. Nó là một loại cơ chế chuyển đổi được điều khiển bởi nồng độ canxi”. 

Một khía cạnh thú vị mà các nhà sinh học phát hiện ra trong mối liên hệ này là sự tiến hóa của các protein CBL. Hầu hết các loại ngũ cốc - chẳng hạn như ngô, lúa mì và lúa mạch - được gọi là cây một lá mầm. Chúng chỉ có protein CBL4 - nói cách khác, chúng thiếu cơ chế chuyển đổi này để thích nghi với tình trạng căng thẳng mặn nghiêm trọng. Ngoài ra còn có các cây hai lá mầm, chẳng hạn như thuốc lá và cà chua và có thể chứng minh trong trường hợp này rằng quá trình nhân đôi gen diễn ra sớm trong quá trình tiến hóa và CBL8 đã phát triển từ đó. Kết quả là, những cây này có cơ hội tốt hơn để phản ứng với căng thẳng do muối. 

Theo Jörg Kudla: “Một cách tiếp cận thú vị sẽ là đưa protein CBL8 vào các cây một lá mầm để chúng cũng có thể thích nghi tốt hơn với căng thẳng do muối. Đây có thể là một biện pháp ngày càng quan trọng đối với các nhà chọn giống cây trồng trong tương lai để đối phó tốt hơn với hạn hán và căng thẳng do mặn”. 

Kính hiển vi có độ phân giải cao, sử dụng công nghệ cảm biến sinh học canxi phân tử trong thực vật, có thể phát hiện ra các tín hiệu canxi tế bào oligo đã được mô tả. Các cảm biến sinh học này hình dung những thay đổi về nồng độ của các chất hoạt tính sinh học như canxi trong tế bào và mô. Những nghiên cứu này liên quan đến công nghệ cảm biến sinh học in vivo được kết hợp với các phương pháp di truyền, sinh học tế bào và sinh hóa khác để làm sáng tỏ chi tiết các cơ chế cơ bản. 

Theo Phys.org

5. Chiếu xạ giúp rong nho tăng cường khả năng chống oxy hóa

Theo kết quả của một nghiên cứu mới do Leibniz ZMT (Trung tâm Nghiên cứu Biển nhiệt đới Leibniz) thực hiện, chất lượng dinh dưỡng của rong nho (Caulerpa lentillifera) còn có thể được cải thiện đáng kể theo cách đơn giản đến không ngờ. 

Rong nho là món quà quý giá của tự nhiên nhờ vào thành phần dưỡng chất hết sức lý tưởng: ít calo nhưng giàu protein, axit béo không bão hòa, muối khoáng, vitamin và các nguyên tố vi lượng khác. Ngoài ra, rong nho đôi khi còn được ví như “caviar xanh” (trứng cá tầm) bởi kết cấu và hương vị của nó, cũng có khả năng chống oxy hóa vô cùng tốt. 

 

Giống như nhiều loài rong tảo khác, rong nho rất giàu tác nhân chống oxy hóa, chẳng hạn vitamins C, … là thành phần thiết yếu trong chế độ ăn cho con người. Ảnh: Blue Aqua International. 

Nghề trồng rong nho ra đời khá tình cờ từ thập niên 1950, khi những người nuôi cá tại Philippines nhận thấy loại rong này có khả năng sinh trưởng tốt trong môi trường ao nuôi. Về sau, rong nho cũng được du nhập và trồng nhiều tại Nhật Bản, Việt Nam hay một số nơi khác. 

Khi được cho tiếp xúc với bức xạ ánh sáng mật độ cao, các gốc tự do gây hại sẽ hình thành bên trong cơ thể rong nho và những loài tảo biển khác. Nhờ cơ chế tự bảo vệ, rong lại tự tiết ra nhiều hoạt chất có tác dụng chống oxy như vitamin C, E, β-carotene, polyphenol,… Các hoạt chất như vậy đóng vai trò thiết yếu đối với sức khỏe con người, giúp cơ thể phòng ngừa nhiều loại bệnh bệnh như tiểu đường, tim mạch,… 

Liệu người trồng rong nho có thể tận dụng lợi thế từ phương pháp này để tăng cường chất lượng dinh dưỡng của rong nho? Đó là câu hỏi khiến nhà sinh vật biển Lara Stuthmann tại ZMT – tác giả chính của nghiên cứu vừa được công bố trên Algal Research – trăn trở.

Công trình được thực hiện dưới sự cộng tác cùng nhóm nghiên cứu sinh vật biển thuộc Đại học Bremen (Đức). Nhóm đã cho rong nho phơi nhiễm với bức xạ ánh sáng ở 5 mức cường độ khác nhau trong 14 ngày mỗi loại, sau đó sử dụng phương pháp trắc quang (photometry) để xác định hàm lượng chất chống oxy hóa. Kết quả đo được so sánh với một số loại “siêu quả” như lựu đỏ, kỷ tử, mâm xôi,… nổi tiếng vì có khả năng chống oxy hóa cực mạnh. Stuthmann nhận thấy thấy rong nho được chiếu xạ có kiểm soát chứa hàm lượng chất chống oxy hóa dồi dào gấp đôi thông thường, đạt mức tương đương với lựu đỏ. 

Trong thông cáo báo chí, trang nhà của ZMT viết: "Chiếu xạ được đánh giá là một phương pháp đơn giản, rẻ tiền và có tiềm năng rất lớn giúp rong nho tăng cường hàm lượng chất chống oxy hóa. Ngoài ra, ứng dụng này cũng đặc biệt hiệu quả đối với các loại rong tảo khác. Tuy nhiên, nếu chiếu xạ quá mức thì cũng rất dễ xuất hiện hiện tượng tẩy trắng (bleaching), cho nên cần phải điều chỉnh cường độ và thời gian phù hợp, tùy theo mục đích sử dụng, chẳng hạn dùng làm thực phẩm hay mỹ phẩm,…" 

Mặc dù khoa học đã ghi nhận sự tồn tại của gần 10.000 loài rong tảo, nhưng chỉ khoảng 8 chi là được nuôi trồng phổ biến (chiếm đến 90%). Bên cạnh mục đích dùng làm thực phẩm, rong biển thường được chiết xuất để thu hoạch carrageen hoặc agar,… 

“Thứ khiến rong nho trở nên đặc biệt so với hầu hết các loại rong tảo khác nằm ở thói quen sinh trưởng và kết cấu của nó, mang lại một trải nghiệm khẩu vị hết sức dễ chịu. Bên cạnh đó, rong nho cũng rất dễ sinh sản và phát triển nhanh”, TS. Karin Springer từ Đại học Bremen – đồng tác giả nghiên cứu cho biết. “Rong nho hoàn toàn có thể đạt được vị trí xứng đáng trong khẩu phần ăn của người Đức như là một nguồn cung cấp protein, chất chống oxy hóa và dưỡng chất dồi dào”, ông nói. 

Nhu cầu về rong nho trên thế giới hiện đang ngày càng lớn, nhất là tại Nhật Bản, Việt Nam, Trung Quốc,… Nó thường được ăn sống cùng các loại nước sốt (VD: mè rang, mayonnaise,…), sushi, hoặc để trộn salad,... Tuy nhiên, châu Âu vẫn chưa công nhận rong nho là thực phẩm, mặc dù khá nhiều đầu bếp nổi tiếng đánh giá rất cao triển vọng của nó. 

Ngoài ra, rong nho còn là một đối tượng nuôi trồng IMTA (phương thức nuôi đa dưỡng tích hợp) vô cùng phù hợp, nhằm giúp tận dụng tối đa các hệ dinh dưỡng (chất thải của loài này sẽ trở thành thức ăn cho loài khác) và giảm thiểu tác động tiêu cực lên môi trường. ZMT hiện đang hợp tác cùng một số trang trại ở Việt Nam để thử nghiệm trồng rong nho kết hợp với nuôi tôm hoặc ốc hương (Babylonia aerolata). 

Theo The Fish Site

6. Phát triển thương hiệu nông sản ĐBSCL: Bắt đầu từ đâu?

Trong Hội nghị về thúc đẩy phát triển nông nghiệp ĐBSCL chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, không chỉ Bộ trưởng Bộ NN&PTNN Lê Minh Hoan mà nhiều chuyên gia ngành nông nghiệp đều nhắc đến chuỗi liên kết giá trị và cả việc xây dựng thương hiệu cho nông sản từ chuỗi giá trị đó chỉ để giải đáp một vấn đề “làm sao để nông sản ĐBSCL tự cứu mình”. 

Thương hiệu yếu vì thiếu chất lượng 

Mỗi khi nhắc đến ĐBSCL, người ta thường nghĩ ngay đến những cánh đồng lúa và những miệt vườn cây trái. Tuy nhiên, khi hỏi đó là những sản vật cụ thể gì thì ai cũng ngớ người ra vì… không biết. Mãi đến gần đây, người ta mới có thể nhắc đến gạo ST25 “ngon nhất thế giới”. Tại sao vậy? Tại sao hoa trái xứ mình ngon ngọt lạ thường như vậy mà mãi “áo gấm đi đêm”, bán hoài, xuất khẩu hoài vẫn chẳng có tiếng tăm. Trên thực tế, “nông sản của mình bán ra ở châu Âu ít lắm, lâu lâu mới có vài thương vụ, mà đa phần bán trong cộng đồng người Việt hoặc cửa hàng của người gốc Á như Thái Lan chứ chưa đưa vào được hệ thống phân phối chính quy. Không phải chỉ có một vài chuyến hàng của một vài doanh nghiệp là có thể nói chúng ta đã chiếm lĩnh được thị trường khó tính. Khi vào được chuỗi phân phối thì mới có sức lan tỏa, người tiêu dùng mới biết đến, chúng ta mới định hình thương hiệu cho mặt hàng nông sản quốc gia”, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Lê Minh Hoan thẳng thắn chỉ ra trong tọa đàm “Nông nghiệp – Trụ đỡ vững chắc trong biến động” do Cổng TTĐT Chính phủ tổ chức cuối năm 2021 [1]. 

Tình trạng xuất khẩu chủ yếu dưới dạng nguyên liệu thô, không thương hiệu khiến một số mặt hàng nông sản ở ĐBSCL nói riêng và Việt Nam nói chung tuy thuộc hàng nhất nhì thế giới về sản lượng xuất khẩu như gạo, hạt tiêu, cà phê nhưng giá trị xuất khẩu lại không tương xứng. Đơn cử theo thống kê của Bộ Công thương năm 2021, sản lượng xuất khẩu cà phê của Việt Nam nằm trong nhóm thứ hai và thứ ba thế giới nhưng giá trị xuất khẩu chỉ đứng thứ 10. Bên cạnh thị trường xuất khẩu, ngay cả trong nước, nông sản có thương hiệu tốt luôn có mức giá cao hơn hẳn. Tiêu biểu như khi sản phẩm gạo ST25 của ông Hồ Quang Cua đoạt giải nhất cuộc thi gạo ngon nhất thế giới năm 2019, hàng loạt điểm bán loại gạo này nhanh chóng cháy hàng. Nhờ giá trị thương hiệu của ST25, nhiều nơi đã chuyển sang trồng giống lúa này và cải thiện thu nhập rõ rệt so với lúc trước. 

 

Việc phát triển thương hiệu là điều cần thiết để nâng cao giá trị của các loại nông sản ở ĐBSCL. Nguồn: Saigon RIders

Tầm quan trọng của việc xây dựng thương hiệu cho nông sản đã được bàn đến từ lâu. Vậy tại sao bao năm nay, thương hiệu nông sản của chúng ta vẫn mờ nhạt? Có ý kiến cho rằng phải thúc đẩy đăng ký bảo hộ, vì các quốc gia có thương hiệu nông sản nổi tiếng thế giới như gạo Hom Mali của Thái Lan, gạo Basmati của Ấn Độ,… đều được chú ý đăng ký bảo hộ từ rất sớm, vừa là cơ sở để phát triển thương hiệu, vừa tránh bị đánh cắp khi ra ngoài thị trường. “Khi gạo Hom Mali đoạt giải gạo ngon nhất thế giới, họ đã phát huy rất bài bản, xây dựng thành thương hiệu gạo quốc gia. Trong khi đó, khi gạo ST25 được vinh danh, chúng ta mới chỉ tặng bằng khen cho người phát minh ra giống lúa chứ chưa có động thái nào công nhận cũng như quản lý thương hiệu”, GS. Võ Tòng Xuân trả lời phỏng vấn trên báo Công thương năm 2021. Điều này vô cùng cần thiết khi muốn xuất khẩu nông sản sang những thị trường cao cấp như Hoa Kỳ, vì “người tiêu dùng Hoa Kỳ mua gạo thường chỉ dựa vào bao bì, nhãn hiệu, thậm chí cùng loại gạo đó nhưng đưa bao bì khác người ta cũng không mua”, đại diện một doanh nghiệp từng chia sẻ trên báo Kinh tế & Đô thị năm 2021. 

Tuy nhiên, việc thiếu đăng ký bảo hộ nhãn hiệu không phải là vướng mắc chính trong phát triển thương hiệu nông sản ở ĐBSCL. Theo thống kê của Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ KH&CN) năm 2019, ĐBSCL là vùng có số lượng nông sản được đăng ký bảo hộ (dưới dạng nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận, chỉ dẫn địa lý) nhiều nhất cả nước.[2] Dưới sự hỗ trợ của các chương trình phát triển tài sản trí tuệ, chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP),… số lượng thương hiệu nông sản được đăng ký bảo hộ ngày càng tăng. Với sản phẩm chủ lực là lúa gạo, từ năm 2018, Cục Sở hữu trí tuệ đã cấp giấy chứng nhận bảo hộ nhãn hiệu Gạo Việt Nam/Vietnam Rice tại Việt Nam do Bộ NN&PTNT là chủ sở hữu nhãn hiệu. Đến nay, nhãn hiệu này được bảo hộ tại 22 quốc gia với kỳ vọng sẽ phát triển thương hiệu gạo quốc gia của Việt Nam. 

Dù quan trọng nhưng “đăng ký bảo hộ chỉ là bước đầu tiên để có được dấu hiệu nhận biết (nhãn hiệu) của sản phẩm thôi, thương hiệu của nông sản phải dựa trên yếu tố chất lượng, từ quy trình sản xuất, chế biến, lưu thông,.. một thương hiệu chỉ thành công khi có được niềm tin của người tiêu dùng và chỗ đứng trên thị trường”, bà Nguyễn Thị Thành Thực, Chủ tịch công ty Bagico Bắc Giang, người có nhiều năm kinh nghiệm về xuất khẩu nông sản nhận xét tại một diễn đàn do Bộ NN&PTNT tổ chức năm 2021. 

Tuy nhiên, đây lại là điểm yếu của nông sản Việt Nam: “Từ trước đến giờ chúng ta bán cái chúng ta có chứ chưa song hành với những gì thị trường cần, về cả số lượng lẫn chất lượng. Tình trạng này dẫn đến ‘sập bẫy’ giải cứu nông sản do tạo ra sản lượng nhiều, dư thừa nhưng không đảm bảo yêu cầu chất lượng, truy xuất nguồn gốc,… Chúng ta không tạo được niềm tin trên thị trường, ngay cả trong nước nhiều khi cũng muốn quay lưng với nông sản nội, đi chợ cũng lo không biết rau này có bị tưới thuốc trừ sâu hay không”, Bộ trưởng Lê Minh Hoan nói.

Việc “bỏ bê” yếu tố chất lượng không chỉ làm giảm giá trị thương hiệu mà còn khiến ngành nông sản ở ĐBSCL dễ gặp rủi ro. Hầu hết nông sản nơi đây được xuất khẩu sang Trung Quốc – một thị trường lớn được coi là “dễ tính”. Nhưng đến gần đây, Trung Quốc bắt đầu siết chặt các quy định về nhập khẩu nông sản, yêu cầu nâng cao chất lượng, minh bạch về truy xuất nguồn gốc, kiểm soát vùng trồng,… dẫn đến tình trạng xuất khẩu nông sản bị ùn ứ, thậm chí trả về do không đáp ứng được các tiêu chí này. “Trong năm 2021, các lô hàng xuất khẩu bị phía Trung Quốc đình chỉ và cảnh báo tăng khá nhanh”, TS. Lê Bá Anh, Phó Cục trưởng Cục quản lý chất lượng nông lâm thủy sản (Bộ NN&PTNT) cho biết trong tọa đàm trực tuyến chia sẻ thông tin, thích ứng với quy định mới trong xuất khẩu nông sản, thực phẩm vào thị trường Trung Quốc vào cuối năm ngoái. 

Bám sát nhu cầu thị trường 

Trước tình trạng này, chúng ta nên làm gì để các thương hiệu nông sản của ĐBSCL phát huy giá trị trên thị trường chứ không chỉ nằm trên giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu? Câu trả lời có lẽ nằm trong những từ khóa phát triển nông nghiệp mà Bộ trưởng Lê Minh Hoan đã chỉ ra: “Điều quan trọng nhất là hợp tác, liên kết, thị trường. Những người sản xuất phải hợp tác với nhau, đồng thời phải liên kết thành chuỗi giữa người sản xuất với doanh nghiệp tiêu thụ, chế biến. Tất cả các hoạt động này phải dựa trên tiêu chí thị trường, chứ không phải bán cái chúng ta có. Chẳng hạn ngày xưa nông sản chất lượng chỉ cần ngon sạch, nhưng xu thế mới là nông nghiệp có trách nhiệm với biến đổi khí hậu, nông nghiệp tuần hoàn, nông nghiệp hữu cơ,… Một trong những thương hiệu tích hợp đa giá trị, bền vững theo xu hướng mới mà chúng tôi đang xây dựng là lúa thơm – tôm sạch ở ĐBSCL”. 

Việc liên kết và hợp tác chặt chẽ cũng là yếu tố quan trọng để các mô hình canh tác an toàn, góp phần nâng cao chất lượng nông sản như VietGAP, GlobalGAP,… phát huy hiệu quả. Dù đã triển khai từ lâu song đến nay, số lượng diện tích rau trồng theo tiêu chuẩn VietGAP trên cả nước vẫn chưa đạt tới 10%, chưa kể đến những tiêu chuẩn cao hơn như GlobalGAP hay rau hữu cơ. Nguyên nhân là “chi phí khá tốn kém, một số nơi đã bỏ trồng theo VietGAP vì đầu ra không có”, theo ông Nguyễn Như Cường, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt (Bộ NN&PTNT) trả lời trên báo Hà nội mới năm 2016. Theo kinh nghiệm của một số ít nơi thành công như hợp tác xã Tân Tiến (Đà Lạt), “phải liên kết được các hộ nông dân bằng cách hỗ trợ quy trình sản xuất, đảm bảo ổn định đầu ra thì mới thu hút được nhiều người tham gia mô hình sản xuất rau an toàn”, ông Mai Văn Khẩn, Giám đốc HTX Tân Tiến cho biết. 

Một trụ cột khác để phát triển thương hiệu là tăng cường chế biến và đa dạng hóa sản phẩm. “Chế biến sâu là yếu tố then chốt để gây dựng thương hiệu nông sản ở thị trường nội địa cũng như quốc tế, vừa giúp dễ dàng vận chuyển, bớt chi phí bảo quản so với trái cây tươi, đồng thời đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của người tiêu dùng. Thế mạnh của ngành nông nghiệp nước ta là có nhiều loại trái cây bổ dưỡng, tuy nhiên, hiện nay việc chế biến thành các loại nước uống hoặc các sản phẩm bổ dưỡng, tiện lợi cho sử dụng còn rất hạn chế”, ông Nguyễn Ngọc Luận, CEO Công ty Cà phê trái cây Meet More cho biết.

Theo https://baochinhphu.vn/

7. Chi phí logistics cho xuất khẩu nông sản của Việt Nam chiếm 20-25%, gấp đôi Thái Lan

Tại Việt Nam, chi phí logistics cho xuất khẩu nông sản trung bình chiếm tỷ lệ 20 - 25% trong khi ở Thái Lan chỉ chiếm 10 - 15%. 

 

Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Lê Minh Hoan nghe báo cáo về phát triển hạ tầng logistics phục vụ nông nghiệp vào chiều 7/9. Ảnh: Minh Phúc.

Chi phí logistics cao gấp đôi Thái Lan

Tháng 2/2021, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 221 về phê duyệt kế hoạch hành động nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển thị trường logistics Việt Nam đến năm 2025. 

Trong đó, Bộ NN-PTNT được giao xây dựng và hoàn thiện hạ tầng logistics phục vụ nông nghiệp, nhất là quy hoạch và triển khai xây dựng hệ thống kho bãi, trung tâm logistics phục vụ nông nghiệp tại các vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn và kết nối giữa các vùng ngành đến trung tâm logistics và cảng biển, cảng hàng không, cửa khẩu. 

Ông Nguyễn Quốc Toản - Cục trưởng Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản, cho biết, những nhóm sản phẩm nông sản cần đòi hỏi dịch vụ logistics chủ yếu ở ngành hàng trái cây. Hiện nay chúng ta có hơn 7.500 cơ sở chế biến nông, lâm, thủy sản quy mô công nghiệp. Tuy nhiên, nhiều cơ sở không gắn với vùng nguyên liệu. Đây là khó khăn cốt lõi, và Bộ NN-PTNT đã có đề án xây dựng vùng nguyên liệu gắn với cơ sở chế biến. 

Bên cạnh đó, chúng ta cũng có hệ thống đường bộ, đường sắt, cảng biển, sân bay, cửa khẩu quốc gia, 9.000 chợ dân sinh, 1.200 siêu thị; 250 trung tâm thương mại, hơn 1.800 cửa hàng tiện lợi và gần 1.700 chuỗi nông sản an toàn.

 

Phát triển logistics phục vụ nông nghiệp giúp nông sản của Việt Nam nâng giá trị gia tăng và tính cạnh tranh.

Tuy nhiên, theo ông Toản, vì chi phí hạ tầng cứng chưa đồng bộ nên chi phí logistics cho xuất khẩu nông sản trung bình chiếm tỷ lệ khoảng 20 - 25%, khá cao so với các nước trong khu vực (như Thái Lan, chi phí logistics nông sản xuất khẩu chỉ chiếm khoảng 10 - 15%). 

Nhiều hạn chế về hạ tầng logistics theo chuỗi giá trị nông nghiệp được ông Toản chỉ ra gồm: Năng lực lưu kho chưa đáp ứng được yêu cầu; chuỗi cung ứng dịch vụ logistics hầu hết do các doanh nghiệp nhỏ thực hiện đơn lẻ từng khâu; dịch vụ logistics mới chỉ phát triển ở các thành phố lớn trong khi các vùng sản xuất nông nghiệp trọng điểm như ĐBSCL chưa có nhiều. 

Ngoài ra, kênh phân phối nông sản qua hệ thống chợ đầu mối và chợ dân sinh chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng và chất lượng; cơ sở hạ tầng và dịch vụ phục vụ thương mại biên giới hạn chế… 

Theo dữ liệu nghiên cứu của Gemadept Logistics, mỗi năm các nhà máy chế biến tại ĐBSCL có nhu cầu vận chuyển khoảng 2 - 3 triệu tấn thủy sản, 6 - 7 triệu tấn gạo, 2,5 - 3 triệu tấn trái cây đến hệ thống kho lạnh, cảng ở TP Hồ Chí Minh và Bà Rịa - Vũng Tàu. Ngược lại, các nhà máy hàng tiêu dùng, nông cụ, nông dược, phân bón, thức ăn gia súc tại Đông Nam Bộ có nhu cầu vận chuyển 6 - 7 triệu tấn thức ăn gia súc, 2 triệu tấn phân bón đến thị trường miền Tây Nam bộ. 

Tuy nhiên, 70% lượng hàng hóa xuất khẩu mỗi năm phải chuyển về TP Hồ Chí Minh hoặc cảng Cái Mép bằng đường bộ khiến giá thành sản phẩm bị đội lên; lưu thông khó khăn và mất thời gian. 

 

Ông Nguyễn Quốc Toản - Cục trưởng Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản. Ảnh: Minh Phúc.

Theo thống kê, hiện có khoảng 4.000 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics, trong đó 88% là các doanh nghiệp trong nước, 10% là doanh nghiệp liên doanh và 2% là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Doanh nghiệp nước ngoài tuy số lượng ít nhưng chiếm giữ thị phần lớn. 

Ông Toản cho biết, tại Việt Nam hiện nay đã xuất hiện một số mô hình logistics hiện đại và chuyên nghiệp. Điển hình như chuỗi cung ứng lạnh thông minh của nhóm doanh nghiệp Bỉ đề xuất triển khai tại khu vực ĐBSCL và Đông Nam bộ gắn với hệ thống giao thông đường sông, xây dựng theo hệ thống các cảng tại khu vực (tập trung vào cung ứng các kho lạnh là nhu cầu thiết yếu, trực tiếp). Dự án này được khởi động từ năm 2018 tại Trà Vinh. 

Còn tại Thái Lan tập trung xây dựng các điểm logistics gắn với vùng nguyên liệu tập trung để cung cấp dịch vụ kho bãi, kho bảo quản lạnh và đóng gói bao bì. Đặc biệt, trong vùng nguyên liệu tập trung họ phân tách rất rõ rệt các vùng nguyên liệu thông qua quy hoạch. Cụ thể, phía Bắc là lúa, sắn, ngô, mía và cây có dầu; phía Nam là cây lâu năm, cây cao su và nuôi trồng đánh bắt thủy sản; miền Trung và miền Tây là chăn nuôi gia súc, gia cầm.

Xây dựng trung tâm logistics gắn vùng nguyên liệu

Theo Bộ trưởng Lê Minh Hoan, để hình thành được một hệ thống logistics đồng bộ phục vụ kinh tế nông nghiệp, chúng ta cần phải xây dựng quy hoạch, có đề án, chiến lược, kế hoạch... Tuy nhiên, mỗi quy hoạch, chiến lược cần phải có nhiều năm khảo sát, đánh giá, xây dựng mới ra được. 

Bởi vậy, Bộ trưởng Lê Minh Hoan đề nghị các đơn vị có liên quan cần khu biệt lại phạm vi và các nhiệm vụ cần tập trung triển khai theo từng năm dựa trên điều kiện và năng lực thực tế. Đặc biệt, ngoài nguồn ngân sách nhà nước, cần phải thu hút các hiệp hội ngành hàng, doanh nghiệp cùng tham gia. Vì nhà nước không thể khai thác và vận hành hệ thống hạ tầng logistics hiệu quả bằng doanh nghiệp. 

Giai đoạn này, chúng ta cần khu biệt lại các mục tiêu, nhiệm vụ để tập trung nguồn lực hỗ trợ hình thành các trung tâm logistics tại các vùng nguyên liệu tập trung thông qua việc lồng ghép thực hiện Đề án thí điểm xây dựng vùng nguyên liệu nông, lâm sản đạt chuẩn phục vụ tiêu thụ trong nước và xuất khẩu giai đoạn 2022 - 2025; Quyết định 1804 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chương trình hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã giai đoạn 2021 - 2025. 

Bộ trưởng nhấn mạnh, trong quá trình xây dựng các mô hình cung ứng dịch vụ logistics tại các vùng nguyên liệu, cần phải gắn với sự tham gia của doanh nghiệp thu mua, chế biến và các hợp tác xã. Trong đó, doanh nghiệp sẽ hướng dẫn các hợp tác xã quản trị, kỹ năng vận hành hệ thống một cách chuyên nghiệp và có hiệu quả. 

 

Nông dân đang yếu về kiến thức logistics. Ảnh có tính chất minh họa.

Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Trần Thanh Nam chia sẻ, nhận thấy các tổ chức của nông dân đang yếu về kiến thức logistics, hạ tầng cơ sở và sự liên kết, trong giai đoạn 2023 - 2027, Thái Lan tập trung hỗ trợ các hợp tác xã phát triển hệ thống logistics để nâng giá trị gia tăng của nông sản. Bộ NN-PTNT cũng cần xây dựng một chương trình phát triển hệ thống logistics nông nghiệp trong các hợp tác xã nông nghiệp. 

Ông Nguyễn Văn Việt - Vụ trưởng Vụ Kế hoạch (Bộ NN-PTNT) cho rằng, nếu chúng ta chỉ tập trung vào xây dựng các chương trình, đề án mà không xác định nguồn lực và có chính sách để hỗ trợ phát triển thì rất khó hình thành được hệ thống cung cấp dịch vụ logistics phục vụ nông nghiệp hiệu quả. 

“Chỉ khi chúng ta xây dựng được khung chính sách thì mới phát triển hạ tầng logistics mang tính chất bền vững, nhất là chính sách về đất đai, tín dụng và hỗ trợ phát triển thị trường. Bởi, thực tế cho thấy, nếu dựa vào ngân sách nhà nước để đầu tư kho lạnh, nhà kho… thì không hiệu quả. Điều quan trọng nhất là phải thu hút được các doanh nghiệp, hợp tác xã bỏ vốn đầu tư và vận hành”, ông Việt nói. 

Theo ông Trần Công Thắng - Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn, hệ thống logistics của quốc gia bao gồm cả những trung tâm nhỏ, trung tâm kết nối và các dịch vụ để có thể đưa hàng hóa, sản phẩm nông sản vào các thị trường lớn. Do đó, cần phải có đánh giá theo chuỗi giá trị nông nghiệp và giải quyết từng khâu trong chuỗi giá trị đó. 

Hiện nay, chúng ta đã có những dự án xây dựng trung tâm logistics cho vùng ĐBSCL tại Cần Thơ. Ngân hàng Thế giới cũng sẵn sàng tài trợ để thành lập trung tâm logistics ở Đồng Tháp khi địa phương bố trí được mặt bằng. Một số trung tâm logistics ở khu vực biên mậu, cảng biển cũng đã được quy hoạch và có mặt bằng, do đó cần rà soát, đánh giá và hỗ trợ để thúc đẩy hình thành các trung tâm logistics này một cách đồng bộ, hiện đại, hiệu quả cao. 

Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản đề xuất cần tập trung hỗ trợ hạ tầng cứng và hạ tầng mềm logistics tại các hành lang biên giới để tập kết, giao dịch trực tiếp sang thị trường nhập khẩu, đặc biệt là trên đất liền của chúng ta. 

Mô hình thứ hai là đầu tư hình thành các điểm logistics cộng đồng ở nông thôn gắn với vùng nguyên liệu. Điểm nào cũng cần có sàn giao dịch điện tử, kho lạnh bảo quản nông sản tươi, kho hàng khô, bãi tập kết, bốc dỡ xe container, điểm kiểm tra, kiểm soát chất lượng hàng hóa đầu ra, đầu vào, ki-ốt bán lẻ và không gian quảng bá sản phẩm cộng đồng. 

Theo NNVN

8. ASEAN hợp tác số hóa trong phát triển nông thôn

ASEAN công nhận đổi mới kỹ thuật số là một trong những trụ cột quan trọng để đảm bảo vật chất, thể chế và người dân kết nối trong khu vực.

52 sáng kiến cấp khu vực về PTNT và xóa đói giảm nghèo

Hội nghị Quan chức cấp cao ASEAN về Phát triển nông thôn và Xóa đói giảm nghèo lần thứ 19 (SOMRDPE 19) được tổ chức tại Hà Nội vừa qua đã thông tin về Khung Kế hoạch Hành động về Phát triển Nông thôn và Xóa đói giảm nghèo giai đoạn 2021 - 2025. 

Ông Nguyễn Hà Huế, Phó vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế (Bộ NN-PTNT) cho biết, Khung Kế hoạch Hành động được thông qua vào năm 2021 nhằm đóng góp vào mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội tổng thể cho người nghèo vùng nông thôn. Nhờ vậy, các dự án, sáng kiến trong khuôn khổ Khung Kế hoạch giúp những nhóm người nghèo nhất tại khu vực hẻo lánh được hưởng lợi từ quá trình phát triển nông thôn.

 

Việt Nam chủ trì Hội nghị quan chức cấp cao ASEAN về phát triển nông thôn và xóa đói giảm nghèo lần thứ 19 (SOMRDPE 19) và Hội nghị các quan chức cấp cao ASEAN và 3 nước đối tác (Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc) về phát triển nông thôn và xóa đói giảm nghèo lần thứ 15 (SOMRDPE + 3). Ảnh: Linh Linh. 

Đại diện Bộ NN-PTNT thông tin, khung Kế hoạch gồm 52 dự án và sáng kiến đã và đang được triển khai nhằm thực hiện hóa mục tiêu phát triển nông thôn và xóa đói giảm nghèo. Theo đó, nhằm tăng tính hiệu quả và sự thành công của Khung Kế hoạch hành động trong vòng 5 năm tới, SOMRDPE xác định năm yếu tố và mục tiêu cụ thể đi kèm gồm kinh tế, con người, tính bảo hộ, chính trị và tính bao trùm. 

Ở khu vực kinh tế, SOMRDPE xác định cần chuyển đổi chuyển đổi nông thôn nhanh chóng, tạo điều kiện để khu vực này tham gia vào các cơ hội kinh tế xã hội. 

Đối với yếu tố con người, cần bảo người dân ở khu vực nông thôn được tiếp cận giáo dục, dịch vụ xã hội và chăm sóc sức khỏe hướng tới cải thiện phúc lợi và đới sống lành mạnh tại các cộng đồng nông thôn. Đối với yếu tố bảo hộ, Khung Kế hoạch đặt mục tiêu thể chế hóa các chương trình ứng phó với thiên tai đối với rủi ro môi trường và biến đổi khí hậu hướng tới khả năng phục hồi nhanh chóng của cộng đồng và hộ gia đình. Đối với yếu tố chính trị, cần quản trị hiệu quả, thể chế hóa các quy chế, quy trình nhằm tăng cường sáng kiến phát triển nông thôn và xóa đói giảm nghèo. Ở mục tiêu bao trùm, Khung Kế hoạch kêu gọi thể chế hóa các cơ chế phát triển nông thôn đa bên, đặc biệt tăng cường sự tham gia của phụ nữ và thanh niên, và các lĩnh vực dễ bị tổn thương khác tại khu vực nông thôn.

Đẩy mạnh hợp tác công nghệ số trong ASEAN+3

Số hóa và đổi mới công nghệ đang mang đến những cơ hội song cũng đặt ra nhiều thách thức cho khu vực nông thôn. Chuyển đổi số giúp thay đổi bộ mặt nông thôn theo hướng hiện đại hơn, bắt kịp quá trình phát triển chung nhưng đi kèm theo đó là những yêu cầu cấp thiết về đầu tư vào cơ sở hạ tầng và con người. 

Theo dự thảo Kế hoạch Tổng thể ASEAN về Phát triển nông thôn giai đoạn 2022 - 2026, chuyển đổi số và áp dụng công nghệ tiên tiến tại khu vực nông thôn là một trong những yếu tố quan trọng giúp phát triển nông thôn tại khu vực. 

ASEAN nhận thức được tầm quan trọng của số hóa và trên thực tế đã đưa chuyển đổi số, áp dụng công nghệ tiên tiến trở thành một phần quan trọng trong Kế hoạch tổng thể về Kinh tế ASEAN (AEC) 2025. ASEAN cũng công nhận đổi mới kỹ thuật số là một trong những trụ cột quan trọng để đảm bảo vật chất, thể chế và người dân kết nối trong khu vực. Tuy nhiên, để thực hiện nỗ lực này, cần có không gian và môi trường thuận lợi cho khu vực ASEAN nói chung và các nước thành viên ASEAN nói riêng tiếp cận với số hóa. Điều này đòi hỏi các nước phải xây dựng chiến lược từ cơ sở hạ tầng kỹ thuật số, nâng cao năng lực của con người về mặt kiến thức và khả năng thích ứng với số hóa trong phát triển nông thôn. 

 

Số hóa trong nông nghiệp và phát triển nông thôn là một lĩnh vực đầy triển vọng.

Số hóa trong nông nghiệp và phát triển nông thôn là một lĩnh vực đầy triển vọng, giúp thu hẹp khoảng cách giữa khoa học và tư duy truyền thống, giúp tăng cường an ninh lương thực và thu nhập tại các cộng đồng nông nghiệp. Cách tiếp cận với các công nghệ mới giúp đảm bảo năng suất, sự ổn định và an toàn theo chuỗi giá trị trong hệ thống sản xuất. 

Mỗi thành viên ASEAN có nhu cầu và khả năng số hóa khác nhau, vô hình chung tạo ra thách thức trong nỗ lực chuyển đổi số trong phát triển nông thôn tại khu vực. Như vậy, để số hóa tại nông thôn đi vào hiệu quả, cần có quá trình đánh giá và lập kế hoạch phù hợp. Cộng đồng và các bên liên quan tại địa phương cần phải được tạo điều kiện để tham gia vào quá trình. Bên cạnh đó, yếu tố chính sách cũng cần được chú trọng nhằm bảo đảm sự bình đẳng trong quá trình chuyển đổi số, bảo đảm sự tham gia của nhóm dễ bị tổn thương hoặc nhóm yếu thế khi đối mặt với những khó khăn trong việc số hóa và đảm bảo không ai bị bỏ lại phía sau. 

Một trong những đối tác của ASEAN+3 cũng đưa ra đề xuất hợp tác số hóa tại Hội nghị các quan chức cấp cao ASEAN và 3 nước đối tác (Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc) về phát triển nông thôn.  

Tại hội nghị, đại diện phía Trung Quốc khẳng định xóa đói giảm nghèo luôn là một trong những nhiệm vụ quan trọng đối với Chính phủ và người dân Trung Quốc trong phát triển một xã hội bền vững. Những năm qua, chính phủ và các tổ chức xã hội nước này đã thực hiện nhiều nỗ lực nhằm cải thiện cuộc sống cho người dân ở nông thôn, rút ngắn khoảng khách giữa thành thị và nông thôn, tăng tốc đô thị hóa, giúp người lao động thu nhập thấp ở nông thôn được thụ hưởng thành quả phát triển của đất nước... Đây cũng là những mục tiêu mà Trung Quốc muốn hợp tác cùng ASEAN trong thời gian tới. 

Cùng chia sẻ, đại diện SOM của Nhật Bản đề cập tới những đóng góp và hợp tác của nước này với khối ASEAN trong lĩnh vực phát triển nông thôn, xóa đói giảm nghèo thông qua Quỹ Liên kết ASEAN - Nhật Bản (JAIF). Theo đó, nhiều dự án và sáng kiến dưới sự tài trợ của JAIF đã giúp cộng đồng ASEAN phát triển nông thôn bền vững hơn, tăng cường sản lượng, nâng cao hiệu quả sản xuất và bảo đảm an ninh lương thực. 

Phía Hàn Quốc cho rằng hợp tác Hàn Quốc - ASEAN đã phát huy tốt trong lĩnh vực cơ cấu nông nghiệp, xây dựng thể chế và năng lực của người lao động. “Bắt đầu từ năm nay, Hàn Quốc hỗ trợ ba nước ASEAN trong áp dụng công nghệ số để tăng cường khả năng chống chịu với biến đổi khí hậu”, đại diện phía Hàn Quốc thông tin. Theo đó, Hàn Quốc cũng muốn tăng cường hợp tác với các nước ASEAN trong lĩnh vực số hóa và công nghệ tiên tiến nhằm tăng cường thu nhập cho người nông dân thông qua cải thiện năng suất, mở rộng cơ sở sản xuất và trung tâm nghiên cứu tại khu vực nông thôn. 

Dự thảo Kế hoạch Tổng thể ASEAN về Phát triển Nông thôn đặt mục tiêu xây dựng một khu vực Đông Nam Á sôi động hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu, phát huy tiềm năng mạnh mẽ của nguồn nhân lực, tạo điều kiện cho từng cá nhân và tất cả mọi người tham gia và hưởng lợi từ công cuộc phát triển nông thôn, được hưởng lợi từ hội nhập kinh tế, một cộng đồng ASEAN với cơ chế quản trị tốt giúp đảm bảo điều kiện sống an toàn và lành mạnh cho người dân, bảo đảm an ninh lương thực, không đói nghèo, xây dựng một nền kinh tế - xã hội có tính bao trùm và thích nghi vói biến đổi khí hậu.

Theo NNVN

9. Cách hệ miễn dịch của trẻ nhỏ phản ứng với vắc-xin sốt rét

Nghiên cứu của các nhà khoa học tại Viên nghiên cứu Burnet - Úc đã cung cấp những hiểu biết mới về cách mà hệ miễn dịch của trẻ nhỏ phản ứng với vắc-xin sốt rét (RTS,S) bao gồm cả tác động của việc tiếp xúc với bệnh sốt rét trong quá khứ đối với phản ứng đó.

 

Nghiên cứu được công bố trên tạp chí BMC Medicine, các nhà khoa học hy vọng rằng có thể được sử dụng để cải thiện vắc-xin và cách sử dụng vắc-xin để bảo vệ tốt hơn cho trẻ em. 

Hiện nay, 2/3 số ca tử vong do sốt rét là trẻ em dưới 5 tuổi. Vắc-xin (RTS,S) là vắc-xin sốt rét duy nhất được Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) khuyên dùng cho trẻ em sống ở các vùng có mức độ lây truyền bệnh sốt rét do Plasmodium falciparum từ trung bình đến cao.

Tác giả của nghiên cứu-Giáo sư James Beeson cho biết: Nhưng nó có một số hạn chế. Vắc-xin (RTS,S) không có tác dụng bảo vệ mạnh, không tồn tại lâu và phản ứng với nó thường không tốt ở trẻ nhỏ. Nghiên cứu này đã phân tích kết quả từ một thử nghiệm lâm sàng giai đoạn II về vắc-xin (RTS,S) trên trẻ nhỏ sống ở vùng đặc hữu sốt rét của Mozambique. Nghiên cứu của Viện Burnet trước đây đã xác định rằng các kháng thể được sản xuất trong máu có thể "phun sơn" ký sinh trùng sốt rét để một số tế bào miễn dịch sẽ nhận ra chúng và loại bỏ chúng khỏi cơ thể bạn, là phản ứng miễn dịch bảo vệ bệnh.

Tiến sĩ Gaoqian Feng, tác giả chính của nghiên cứu cho biết: "Những gì chúng tôi đang nghiên cứu, là vắc-xin này tạo ra loại phản ứng miễn dịch tốt như thế nào, và những phản ứng miễn dịch đó kéo dài bao lâu”. Phân tích cho thấy rằng khả năng của vắc-xin chỉ cung cấp 30–50% khả năng bảo vệ, tạo ra phản ứng miễn dịch bảo vệ là tương đối khiêm tốn. Và chúng tôi nhận thấy rằng tổng thể những phản ứng miễn dịch đó suy giảm khá nhanh, phản ánh sự mất khả năng bảo vệ của vắc-xin xảy ra trong vòng một năm. Một quan sát quan trọng khác là trẻ em tiếp xúc nhiều với bệnh sốt rét có phản ứng với vắc-xin thấp hơn.

Giáo sư James Beeson cho biết: Đó không phải là những gì chúng tôi đã dự đoán. Nhưng chúng tôi nghĩ rằng các đợt sốt rét làm thay đổi cách thức hoạt động của hệ miễn dịch. Nếu việc tiếp xúc lặp lại với bệnh sốt rét đã làm thay đổi hệ miễn dịch của trẻ, khi chúng được tiêm vắc-xin sốt rét, chúng sẽ không phát triển phản ứng tốt và sẽ không được vắc-xin bảo vệ mạnh.

Điều này trái ngược trực tiếp với COVID-19, vì hầu hết dữ liệu cho thấy rằng việc bị nhiễm trùng tự nhiên trước khi tiêm vắc-xin làm cho phản ứng miễn dịch tốt hơn chứ không phải tồi tệ hơn. Lý do tại sao nó có thể khác nhau đối với bệnh sốt rét không hoàn toàn rõ ràng và là một trọng tâm của nghiên cứu đang diễn ra. Những phát hiện nghiên cứu này đang cung cấp manh mối về cách tinh chỉnh hoặc xây dựng dựa trên vắc-xin RTS, S để tạo ra các phản ứng bảo vệ tốt hơn.

Theo https://medicalxpress.com/

10. Nguyên tắc điều trị mới đối với nhiễm trùng viêm gan B và D mãn tính

Một phương pháp điều trị miễn dịch mới chống lại vi-rút viêm gan B và D, cả hai đều có thể gây ung thư gan, cho thấy kết quả đầy hứa hẹn trên các mô hình động vật. Những kết quả từ phương pháp điều trị, đang được phát triển bởi các nhà nghiên cứu tại Học viện Karolinska Institutet-Thụy Điển, và được công bố trên tạp chí Gut.

 

Nhiễm trùng mãn tính vi-rút viêm gan B (HBV) và vi-rút viêm gan D (HDV) là nguyên nhân chính gây tổn thương gan nặng và ung thư gan. Đã có vắc-xin phòng bệnh viêm gan B, nhưng hơn 250 triệu người hiện đang bị nhiễm trùng mãn tính. Phương pháp điều trị hiện có hiếm khi dẫn đến sự biến mất hoàn toàn của nhiễm trùng, có nghĩa là nguy cơ tổn thương gan vẫn còn. Phương pháp điều trị viêm gan D mãn tính hiện nay chỉ chữa khỏi cho khoảng 1/4 số bệnh nhân.

Đó là lý do tại sao các nhà khoa học tại Karolinska Institutet đang phát triển phương pháp điều trị mới với hy vọng sẽ tạo ra phản ứng điều trị lâu dài chống lại cả hai loại vi-rút. Phương pháp này gồm hai thành phần được thiết kế để ảnh hưởng đến hệ miễn dịch theo những cách khác nhau. Đầu tiên, một loại vắc-xin dựa trên DNA được sử dụng để kích hoạt sản xuất một số kháng thể trung hòa và tế bào T chống lại cả hai loại vi-rút. Sau đó, các liều lặp lại của vắc-xin dựa trên protein được tiêm để củng cố sự kích hoạt của hệ miễn dịch.

Nghiên cứu cho thấy phương pháp điều trị này có thể bảo vệ một số tế bào được nuôi cấy chống lại sự lây nhiễm HBV và HDV. Khi được thử nghiệm, chuột mang các bộ phận của vi-rút viêm gan B và D, giống như nhiễm HBV mãn tính, những con chuột này đã tạo ra nhiều kháng thể và tế bào T mong muốn ở mức độ cao. Hơn nữa, kháng thể từ chuột được điều trị có thể bảo vệ chuột mang tế bào gan người chống lại sự lây nhiễm đồng thời với HBV và HDV. Ngoài ra, những kháng thể này có thể bảo vệ chuột bị nhiễm HBV mãn tính chống lại sự lây nhiễm HDV. Điều này đặc biệt quan trọng vì bệnh nhân nhiễm HBV mãn tính có nguy cơ bị bệnh nặng nếu bị nhiễm HDV.

Giáo sư Matti Sällberg thuộc Phòng thí nghiệm tại Viện Karolinska cho biết: “Đây là những kết quả đầy hứa hẹn, là một lộ trình khả thi và khuyến khích chúng tôi tiếp tục phát triển phương pháp điều trị này để sử dụng cho người. Hiện nhóm nghiên cứu đang tối ưu hóa phần dựa trên protein để cho phép sản xuất quy mô lớn theo tiêu chuẩn dược phẩm và sau đó thực hiện nghiên cứu an toàn cuối cùng trước khi có thể áp dụng cho nghiên cứu đầu tiên ở trên người”.

Theo https://medicalxpress.com

  • slideshow_large
  • slideshow_large
  • slideshow_large
  • slideshow_large
  • slideshow_large
Truy cập hôm nay : 15
Truy cập trong 7 ngày :62
Tổng lượt truy cập : 6,376