Banner Ngày 25/4/2024
Thông báo về kết quả trúng tuyển kỳ tuyển dụng viên chức của Trung tâm Ứng dụng Tiến bộ Khoa học và Công nghệ tỉnh Sóc Trăng năm 2023. ( 04/03/2024 )
 12/12/2022 Lượt xem: 278

1. Các đại thực bào cư trú ở thận có các quần thể con riêng biệt và chiếm cứ các môi trường vi mô riêng biệt

Đại thực bào là những tế bào miễn dịch có nhiệm vụ dập chìm và tiêu hóa các mầm bệnh, tế bào ung thư hoặc các mảnh vụn tế bào. Thận - giống các mô khác trong cơ thể - chứa các đại thực bào trú ngụ ở thận, còn gọi là KRM, ngay từ khi được sinh ra. Các KRM này bảo vệ thận chống lại nhiễm trùng hoặc tổn thương và giúp duy trì sức khỏe của mô bằng cách ‘nuốt’ các mảnh vụn hoặc các tế bào thận đang chết.

 

Trong các cơ quan khác, vị trí của đại thực bào ảnh hưởng đến chức năng của chúng. Tiến sĩ James George và các đồng nghiệp tại Trường Đại học Alabama - Birmingham (UAB) lần đầu tiên báo cáo rằng thận ở chuột chứa bảy quần thể KRM riêng biệt nằm trong các môi trường vi mô rời rạc về mặt không gian và mỗi quần thể con có một ký hiệu phiên mã độc nhất – một thước đo gen hoạt động, giới hạn chức năng riêng biệt của mỗi loại.

Nghiên cứu của UAB, được công bố trên tạp chí JCI Insight, là một ứng dụng của phương pháp phiên mã không gian (spatial transcriptomics) - một phương pháp để chỉ định các loại tế bào cho vị trí của chúng trong các phần mô học, được tạp chí Nature Methods công bố là Phương pháp của năm 2020.

George cho biết: “Sự phân tầng của KRM thành các khu vực cụ thể trong thận trước đây chưa từng được biết đến. Vị trí không gian của đại thực bào tác động đến chức năng của chúng trong các mô khác, chẳng hạn như phổi, lá lách và gan, đồng thời định hình phản ứng với thách thức miễn dịch học. Mặc dù nhiều trạng thái bệnh được biết có mối liên hệ với KRM và nhắm mục tiêu các quần thể sẽ mang đến hứa hẹn điều trị lớn, nhưng để thiết kế thành công và thực thi các chiến lược như vậy bị hạn chế bởi hiểu biết hiện tại của chúng tôi về quy định KRM và phản ứng với chấn thương theo chức năng”.

George, Anupam Agarwal và các đồng nghiệp UAB đã lần ra dấu vết các KRM này ở thận bình thường và ở thận chấn thương thực nghiệm do hạn chế lưu lượng máu trong 19 phút. Chấn thương thận cấp tính như vậy có thể dẫn đến bệnh thận mãn tính, do đó, kiến ​​thức về những thay đổi trong quần thể KRM sau chấn thương là một phần quan trọng trong tập bản đồ KRM của thận ở chuột. Tập bản đồ này sẽ là điểm tham khảo cho các nghiên cứu trong tương lai về vai trò của hệ thống đại thực bào thường trú trong thận bình thường và bị chấn thương.

Thận bị thương đã được kiểm tra lúc 12 giờ và sau khi bị thương 1, 6 và 28 ngày.

George nói rằng: “Thận sau bị chấn thương, chúng tôi theo dõi thấy dường như các tiểu quần thể di chuyển khắp nơi trong mô. Điều này gợi ý đến khả năng dịch chuyển để phản ứng với chấn thương của các tế bào này. Đại thực bào có khả năng di chuyển, tương tự như loài amip. Vào 28 ngày sau khi bị thương, 3 trong số các tiểu quần thể đại thực bào phần lớn quay trở lại vị trí mà chúng được tìm thấy trước khi bị thương, nhưng 4 tiểu quần thể vẫn nằm rải rác khắp thận. Do đó, dữ liệu của chúng tôi hỗ trợ một giả thuyết lâu dài về sự rối loạn điều hòa hệ thống miễn dịch sau chấn thương thận cấp tính có thể là một yếu tố chính góp phần làm tăng nguy cơ mắc bệnh thận mãn tính sau một sự kiện chấn thương thận cấp tính".

Trong mỗi quả thận người có hơn 1 triệu nephron. Nephron là một đơn vị chức năng nhỏ của thận, loại bỏ chất lỏng từ máu, và sau đó đưa phần lớn chất lỏng đó trở lại máu trong khi giữ lại nước tiểu sẽ được thải chảy qua niệu quản đến bàng quang. Các phần khác nhau của nephron thực hiện các chức năng khác nhau và các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng các quần thể đại thực bào riêng biệt có liên quan đến các phần riêng biệt của nephron.

Nghiên cứu bắt đầu với việc giải trình tự RNA đơn bào của 58.304 KRM được phân lập từ toàn bộ thận của chuột. Thông qua phân tích 3.000 gen biến đổi, họ đã xác định được bảy quần thể phụ khác biệt chính có các dấu hiệu phiên mã độc nhất - các RNA thông tin được phiên mã từ các gen hoạt động.

Các gen biểu hiện khác biệt của 6 cụm trong số các cụm chỉ ra ít nhất một chức năng cụ thể nào đó. George nói, ví dụ như, các biểu thị bản thể học gen quan trọng nhất trong Cụm 1, 3 và 6 có liên quan đến các phản ứng chống vi khuẩn, kháng vi-rút và chống nấm. Cụm 2 chứa các biểu thị liên quan đến phản ứng với sắt, thực bào và chữa lành vết thương, tham gia vào các chức năng cân bằng nội môi. Các cụm 0 và 4 được ánh xạ tới một số biểu thị, nhưng phân tích có đề cập đến yếu tố hoại tử khối u và quá trình apoptosis. Các ánh xạ bản thể học gen khác nhau này gợi ý rằng mỗi cụm thực hiện một chương trình phiên mã riêng biệt có thể là thực hiện chức năng của vị trí mà mỗi cụm đó cư trú.

Để tìm thấy các vị trí của các cụm, nhóm nghiên cứu đã đặt một lát mỏng của quả thận lên một tấm kính hiển vi Visium Spatial Gene Expression có kích thước khoảng một phần tư insơ vuông. Công nghệ tích hợp trong kính này cho phép các nhà nghiên cứu xác định vị trí quần thể con cư trú trong thận dựa trên tín hiệu phiên mã của chúng.

Các transcriptomes và vị trí của các Cụm 1, 3 và 6 mô tả một hàng rào miễn dịch chiến lược từ niệu quản, nguồn gốc phổ biến nhất của nhiễm trùng thận. Điều quan trọng ở đây là, tập bản đồ phiên mã KRM vào thời điểm 28 ngày sau khi thận bị thương đã bị thay đổi liên tục, không tồn tại ở các vị trí ban đầu của chúng nữa.

Do sự gián đoạn liên tục trong quá trình phiên mã và phân bố không gian ngoài tổn thương cấp tính, KRM có thể ảnh hưởng đến quá trình chuyển đổi sang bệnh thận mãn tính, George cho biết.

Theo https://medicalxpress.com/news/2022-09-kidney-resident-macrophages-distinct-subpopices.html.

2. Ứng dụng vi lượng đất hiếm trong trồng trọt và chăn nuôi

Ngày 6/10/2022 tại Hà Nội đã diễn ra Hội nghị Khoa học và Công nghệ hạt nhân cán bộ trẻ ngành Năng lượng nguyên tử lần thứ 7 do Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam (NLNTVN) tổ chức. Sự kiện hướng tới thúc đẩy nghiên cứu khoa học, phát triển ứng dụng năng lượng nguyên tử trong bối cảnh Việt Nam đang tích cực thúc đẩy khoa học công nghệ, ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình.

 

Áp dụng vi lượng đất hiếm trong phân bón làm tăng sự phát triển của bộ rễ cho cây trồng cũng như tăng khả năng chống hạn, chịu đựng sâu bệnh. (Ảnh minh họa)

Trong rất nhiều công nghệ để xử lý, hỗ trợ cho nông nghiệp, ứng dụng công nghệ vi lượng đất hiếm đã được sử dụng và phát triển nhiều ở các quốc gia như Isreal, Úc, Đức, Mỹ… Tại Việt Nam cũng đang áp dụng vi lượng đất hiếm cho các lĩnh vực và nổi bật hơn hết là trong lĩnh vực nông nghiệp. Tại Việt Nam, những nghiên cứu thử nghiệm đầu tiên về ảnh hưởng của đất hiếm đến sự phát triển của một số cây trồng đã được tiến hành từ những năm 1990 và lần đầu tiên được áp dụng trên đồng ruộng vào năm 1993. Chế phẩm phun lá đất hiếm 93 dùng trong nông nghiệp như một thứ phân bón vi lượng, giảm lượng phân bón thông thường. Hiện nay, Viện NLNTVN đã có nhiều nghiên cứu và triển khai ứng dụng sản phẩm chứa vi lượng đất hiếm giúp tăng năng suất và tăng chất lượng trong trồng trọt, chăn nuôi gia súc, gia cầm và thuỷ hải sản tại một số địa phương và đã thu được những kết quả tốt về chất lượng, có hiệu quả kinh tế cao và vẫn bảo vệ được sức khỏe của người tiêu dùng, như: sử dụng phân bón chứa vi lượng đất hiếm cho cây chè, và cây dược liệu; sử dụng vi lượng đất hiếm trong thức ăn chăn nuôi (gà, lợn) và nuôi trồng thuỷ sản.

Ứng dụng vi lượng đất hiếm trong trồng trọt và chăn nuôi cho thấy rất nhiều tiềm năng. Trong phân bón có đất hiếm giúp thúc đẩy quá trình phát triển của cây, tăng tích lũy và vận chuyển hydrocarbon, đóng vai trò là chất hoạt hóa, tác động lên quá trình chuyển hóa các chất dinh dưỡng. Thực tế ứng dụng đất hiếm giúp cây trồng năng suất tăng từ 15-40%, hàm lượng đường ở mía (tăng 0,5%), dưa hấu (tăng 0,5-1%) và vitamin C trong các trái cây (tăng 4% cho cam). Phân bón vi lượng đất hiếm hữu cơ hiện được ứng dụng trong các mô hình trồng trọt như chè hữu cơ (Thái Nguyên), khổ qua, ớt sừng tại Viện Nghiên cứu nông nghiệp Lộc Trời, hay bưởi cam Hà Tĩnh, măng tây Quảng Ngãi...

Sử dụng phụ gia đất hiếm trong nuôi trồng thủy sản cũng làm tăng tỷ lệ sống, tăng trưởng nhanh. Các nghiên cứu thử nghiệm trong nuôi tôm, cá, sò, trai cho thấy khả năng kích thích sự phát triển của nhiều enzym, tăng sức đề kháng với bệnh tật, ví dụ tôm tăng tỷ lệ sống tới 15%. Bên cạnh đó, phụ gia đất hiếm ứng dụng trong chăn nuôi lợn giúp tăng trọng cải thiện 10-20%, chi phí thức ăn giảm 8-10%.

Vi lượng đất hiếm được nhiều quốc gia như Trung Quốc, Tây Âu đã ứng dụng vào chăn nuôi, nông nghiệp. Tại Việt Nam, nghiên cứu về vi lượng đất hiếm trong loại cây đã triển khai, song hiện mới chỉ có những nguyên tố dạng nhẹ (như hai nguyên tố là lanthan và xeri) được sử dụng phổ biến.

Một số đơn vị triển khai đề tài ứng dụng đất hiếm trong nuôi gà, cá, lợn song mới ở giai đoạn bước đầu. Trong tiêu chuẩn chăn nuôi vẫn chưa có tiêu chí về vi lượng đất hiếm. Theo các chuyên gia việc ứng dụng đất hiếm rộng rãi sẽ giúp khai thác hiệu quả các nguyên tố, chế biến, phân chia các nguyên tố ứng dụng phù hợp để mang lại hiệu quả cao.

Tại hội nghị, nhiều công nghệ cũng được giới thiệu như ứng dụng kỹ thuật đồng vị bền trong xác thực chất lượng và phân biệt nguồn gốc địa lý của sản phẩm nông sản. Ứng dụng công nghệ sử dụng bức xạ chùm tia điện tử (EB) trong xử lý kiểm dịch khi xuất khẩu trái cây tươi.

Theo https://www.vista.gov.vn/

3. Các nhà khoa học đề xuất béo phì là một rối loạn phát triển thần kinh

Béo phì đã gia tăng nhanh chóng trong những thập kỷ gần đây, ảnh hưởng đến hơn 2 tỷ người, khiến nó trở thành một trong những nguyên nhân góp phần lớn nhất gây ra tình trạng sức khỏe kém trên toàn thế giới. Mặc dù trải qua nhiều thập kỷ nghiên cứu về các phương pháp điều trị bằng chế độ ăn uống và tập thể dục, nhưng nhiều người vẫn phải tiếp tục đấu tranh để giảm cân. Các nhà nghiên cứu tại Đại học Y Baylor và các tổ chức hợp tác hiện nghĩ rằng họ biết lý do tại sao và cho biết chúng ta phải chuyển trọng tâm từ điều trị béo phì sang phòng ngừa bệnh.

 

Nhóm nghiên cứu báo cáo trên tạp chí Science Advances rằng các cơ chế phân tử của quá trình phát triển não bộ trong giai đoạn đầu đời có thể là yếu tố quyết định chính đến nguy cơ béo phì. Các nghiên cứu lớn trước đây ở người đã gợi ý rằng các gen có liên quan mạnh mẽ nhất đến bệnh béo phì được biểu hiện trong bộ não đang phát triển. Nghiên cứu hiện tại trên chuột này tập trung vào quá trình phát triển biến đổi gen biểu sinh (biến đổi ngoại di truyền - epigenetics) hay chính là những thay đổi trong hoạt động của gen được không được quyết định trực tiếp bởi thông tin di truyền mã hóa trong các mạch ADN, mà được quyết định bởi các phân tử từ môi trường. Các phân tử này quyết định khi nào, nơi nào và ở mức độ nào, vật chất di truyền của cơ thể được kích hoạt.

"Nhiều thập kỷ nghiên cứu trên người và các mô hình động vật đã chỉ ra rằng những ảnh hưởng từ môi trường trong các giai đoạn phát triển quan trọng có tác động lâu dài rất lớn đến sức khỏe và bệnh tật", Tiến sĩ Robert Waterland, giáo sư nhi khoa và dinh dưỡng, thành viên của Trung tâm Nghiên cứu Dinh dưỡng trẻ em thuộc USDA tại Baylor cho biết: "Quy định trọng lượng cơ thể rất dễ bị tác động bởi ‘lập trình phát triển' như vậy, nhưng cách thức hoạt động của nó như thế nào hiện vẫn chưa được biết rõ".

Tiến sĩ Harry MacKay, từng là cộng sự bậc sau tiến sĩ tại phòng thí nghiệm Waterland, trong thời gian tham gia dự án, tác giả đầu tiên của nghiên cứu, cho biết: "Trong nghiên cứu này, chúng tôi tập trung vào một vùng não có tên gọi là hạt nhân vòm cung của vùng dưới đồi, là cơ quan quy định chính về lượng thức ăn nạp vào, hoạt động thể chất và sự trao đổi chất. Chúng tôi phát hiện ra rằng nhân vòm cung trải qua qáu trình biến đổi gen biểu sinh mở rộng trong trong thời kỳ đầu sau sinh. Giai đoạn này cũng rất nhạy cảm với lập trình phát triển của sự điều chỉnh trọng lượng cơ thể, gợi ý rằng những ảnh hưởng này có thể là hậu quả của rối loạn quá trình biến đổi gen biểu sinh”. 

Nhóm nghiên cứu đã tiến hành phân tích toàn bộ bộ gen về cả quá trình methyl hóa DNA - một thẻ biểu sinh quan trọng - và biểu hiện gen, cả trước và sau khi đóng cửa sổ quan trọng sau khi sinh để lập trình phát triển trọng lượng cơ thể.

MacKays cho biết: “Một trong những điểm mạnh nhất trong nghiên cứu của chúng tôi là chúng tôi đã nghiên cứu hai cấp chính của tế bào não, tế bào thần kinh và tế bào thần kinh đệm. Hóa ra là sự thay đổi phát triển biểu sinh rất khác nhau giữa hai loại tế bào này".

"Nghiên cứu của chúng tôi là nghiên cứu đầu tiên so sánh sự thay đổi phát triển biểu sinh này ở nam và nữ", Waterland nói. "Chúng tôi rất ngạc nhiên khi phát hiện ra sự khác biệt lớn về giới tính. Trên thực tế, xét về những thay đổi biểu sinh sau khi sinh, nam và nữ khác nhau nhiều hơn là chúng giống nhau. Và, nhiều thay đổi xảy ra ở nữ sớm hơn ở nam, cho thấy rằng nữ sinh trưởng sớm về mặt này".

Bất ngờ lớn nhất xuất hiện khi các nhà điều tra so sánh dữ liệu biểu sinh ở chuột với dữ liệu ở người từ các nghiên cứu liên kết toàn bộ bộ gen để sàng lọc các biến thể di truyền liên quan đến béo phì. Các vùng gen được nhắm mục tiêu đối với sự biến đổi ngoại di truyền học (epigenetic maturation) trong nhân vòm cung chuột chồng lấn lên nhau mạnh mẽ trong các vùng gen liên quan đến chỉ số khối cơ thể, một chỉ số về béo phì ở người.

MacKay cho biết: “Những mối liên hệ này cho thấy nguy cơ béo phì ở người được xác định một phần bởi sự phát triển các biến đổi gen biểu sinh (epigenetics) trong nhân vòm cung. Kết quả của chúng tôi cung cấp bằng chứng mới cho thấy các biến đổi di truyền biểu sinh phát triển có thể liên quan đến cả những ảnh hưởng từ môi trường và di truyền ban đầu đối với nguy cơ béo phì”.

Những chuyên gia khác đóng góp cho nghiên cứu này bao gồm Chathura J. Gunasekara, Kit-Yi Yam, Dollada Srisai, Hari Krishna Yalamanchili, Yumei Li, Rui Chen và Cristian Coarfa.

Theo https://medicalxpress.com/

4. Mối liên hệ giữa chứng viêm và vấn đề nhận thức ở bệnh nhân ung thư vú

Các nhà khoa học vẫn đang tìm hiểu lý do tại sao nhiều người sống sót sau ung thư vú gặp phải những vấn đề về nhận thức trong nhiều năm sau khi điều trị. Và có thể xảy ra cả chứng viêm. Một nghiên cứu dài hạn mới về vấn đề này do nhóm nghiên cứu của Đại học Carlifornia dẫn đầu đã bổ sung thêm bằng chứng quan trọng cho mối liên hệ tiềm năng đó. Khi chứng viêm nặng được gọi là protein phản ứng C (CRP) có liên quan đến những người lớn tuổi sống sót sau ung thư vú, dựa vào báo cáo vấn đề về nhận thức trong nghiên cứu mới.

 

Protein phản ứng C là một protein năm cánh hình khuyên được tìm thấy trong huyết tương, có nồng độ trong tuần hoàn tăng lên để phản ứng với tình trạng viêm. Nó là một loại protein pha cấp tính có nguồn gốc từ gan, tăng lên sau sự bài tiết interleukin-6 bởi đại thực bào và tế bào T

Tác giả nghiên cứu, Phó giáo sư Judith Carroll, cho biết: "Xét nghiệm máu cho CRP được sử dụng thường xuyên tại phòng khám để xác định nguy cơ mắc bệnh tim. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy xét nghiệm viêm nhiễm phổ biến này cũng có thể là một dấu hiệu cho thấy nguy cơ mắc các vấn đề nhận thức được báo cáo bởi những người sống sót sau ung thư vú".

Đây là Nghiên cứu về Suy nghĩ và Sống chung với Ung thư (TLC), là một trong những nỗ lực dài hạn đầu tiên nhằm xem xét mối liên hệ tiềm ẩn giữa chứng viêm mãn tính và nhận thức ở những người sống sót sau ung thư vú từ 60 tuổi trở lên, chiếm phần lớn trong số gần như 4 triệu người sống sót sau ung thư vú ở Hoa Kỳ. Những nghiên cứu cũ chủ yếu tập trung vào phụ nữ trẻ hơn và phụ nữ ngay sau khi điều trị, khiến cho việc đưa ra kết luận về vai trò của CRP trong vấn đề nhận thức lâu dài ở những người lớn tuổi sống sót sau ung thư vú trở nên khó khăn. Các nhà khoa học đã lấy mẫu máu của hàng trăm người sống sót sau ung thư vú và phụ nữ không bị ung thư 6 lần trong suốt 5 năm.

Tiến sĩ Jeanne Mandelblatt cho biết: "Các vấn đề về nhận thức ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày của phụ nữ nhiều năm sau khi hoàn thành điều trị và báo cáo của họ về khả năng hoàn thành nhiệm vụ và ghi nhớ mọi thứ là dấu hiệu rõ nhất về một số vấn đề trong nghiên cứu này".

Từ quan điểm của mỗi phụ nữ, nhận thức được đánh giá thông qua một bảng câu hỏi được sử dụng phổ biến để đánh giá khả năng ghi nhớ của họ như tên và phương hướng, khả năng tập trung và các khía cạnh khác của cuộc sống hàng ngày. Nghiên cứu cho thấy mức CRP cao hơn trong số những người sống sót là dự đoán về chức năng nhận thức được báo cáo thấp hơn ở những người sống sót sau ung thư vú. Không có mối quan hệ tương tự giữa mức CRP và nhận thức được báo cáo ở những phụ nữ không bị ung thư.

Hiệu suất nhận thức, được đo bằng những bài kiểm tra tâm lý thần kinh tiêu chuẩn, không cho thấy mối liên hệ giữa CRP và nhận thức. Các tác giả cho biết điều này có thể cho thấy phụ nữ nhạy cảm hơn với những khác biệt trong chức năng nhận thức hàng ngày của họ, tự báo cáo những thay đổi mà một số thử nghiệm khác bỏ sót. Cần nghiên cứu xem liệu biện pháp can thiệp có thể giảm viêm; bao gồm tăng hoạt động thể chất; ngủ ngon hơn và thuốc chống viêm, có thể ngăn ngừa hoặc giảm bớt mối lo ngại về nhận thức ở những người lớn tuổi sống sót sau ung thư vú hay không.

Theo https://medicalxpress.com/news/2022-09-long-term-link-inflammation-cognitive-problems.html.

5. Bệnh nhân tăng nhãn áp có nguy cơ mắc bệnh Alzheimer

Một nghiên cứu lớn ở Đài Loan cho thấy những người mắc bệnh tăng nhãn áp căng thẳng bình thường, có nguy cơ cao mắc bệnh Alzheimer. Các nhà khoa học cho biết những người mắc loại bệnh tăng nhãn áp này nên được tầm soát bệnh Alzheimer. Nghiên cứu sẽ được trình bày tại AAO 2022, cuộc họp thường niên lần thứ 126 của Học viện Nhãn khoa Hoa Kỳ.

 

Bệnh tăng nhãn áp là một nhóm bệnh về mắt làm tổn thương dây thần kinh thị giác, mô kết nối mắt với não. Các loại bệnh tăng nhãn áp phổ biến nhất liên quan đến áp suất cao bất thường bên trong mắt. Nhưng bệnh tăng nhãn áp căng thẳng bình thường, còn được gọi là bệnh tăng nhãn áp căng thẳng thấp, là một dạng bệnh tăng nhãn áp, trong đó tổn thương xảy ra đối với dây thần kinh thị giác mặc dù nhãn áp trong phạm vi bình thường.

Các nghiên cứu trước đây đánh giá mối liên hệ giữa bệnh tăng nhãn áp và bệnh Alzheimer đưa ra nhiều kết quả khác nhau, nhưng rất ít nghiên cứu chỉ tập trung vào bệnh tăng nhãn áp căng thẳng bình thường.

Để tìm hiểu thêm, các nhà khoa học đã phân tích dữ liệu từ Cơ sở dữ liệu Nghiên cứu Bảo hiểm Y tế Quốc gia Đài Loan được thu thập trong khoảng thời gian 12 năm. Họ so sánh tỷ lệ mắc bệnh Alzheimer ở 15.317 người bị bệnh tăng nhãn áp độ căng bình thường và 61.268 người phù hợp về độ tuổi và giới tính không bị tăng nhãn áp.

Sau khi điều chỉnh bệnh tiểu đường; tăng huyết áp; tăng lipid máu; bệnh mạch vành và đột quỵ, họ phát hiện ra những người bị bệnh tăng nhãn áp thể căng thẳng bình thường có nguy cơ mắc bệnh Alzheimer cao hơn 52% so với những người không bị bệnh tăng nhãn áp. Những người lớn tuổi, phụ nữ hoặc có tiền sử đột quỵ có tỷ lệ mắc bệnh cao nhất. Ngoài ra, họ phát hiện ra rằng việc sử dụng thuốc nhỏ mắt tăng nhãn áp không bảo vệ khỏi bệnh Alzheimer hoặc làm tăng tỷ lệ mắc bệnh.

Trưởng nhóm nghiên cứu, Tiến sĩ Yu-Yen Chen, cho biết: "Từ góc độ sức khỏe cộng đồng, các nhà hoạch định chính sách được khuyến khích thực hiện tầm soát bệnh Alzheimer cho những bệnh nhân có nguy cơ mắc bệnh tăng nhãn áp mức độ căng thẳng bình thường và cung cấp dịch vụ chăm sóc tích hợp ".

Mặc dù không phải tất cả mọi người bị bệnh tăng nhãn áp đều sẽ phát triển bệnh Alzheimer, nhưng nghiên cứu này nhấn mạnh mối liên hệ giữa chúng với nhau như thế nào. Cả hai đều xảy ra khi các tế bào thần kinh teo và không hoạt động, là quá trình được gọi là thoái hóa thần kinh. Trong bệnh tăng nhãn áp, thoái hóa thần kinh ảnh hưởng đến tế bào hạch võng mạc ở dây thần kinh thị giác, gây mù lòa theo thời gian. Trong bệnh Alzheimer, nó ảnh hưởng đến tế bào thần kinh trong não chịu trách nhiệm về trí nhớ và nhận thức. Người ta hy vọng rằng việc nghiên cứu sâu hơn về những điểm giống và khác nhau giữa các căn bệnh này sẽ đưa ra được phương pháp điều trị mới cho cả hai tình trạng này.

Theo https://medicalxpress.com/news/2022-09-people-glaucoma-significant-alzheimer-disease.html.

6. Tuần lễ Số quốc tế Việt Nam - VIDW2022 lần đầu tiên tại Việt Nam

Ngày 11/10/2022 tại Hà Nội, Bộ thông tin và Truyền thông tổ chức đã tổ chức lễ khai mạc Tuần lễ Số quốc tế Việt Nam - Vietnam International Digital Week-VIDW2022- với chủ đề "Đối tác toàn cầu vì tương lai số bền vững".

 

Quang cảnh lễ khai mạc Tuần lễ Số quốc tế Việt Nam 2022

Tham dự sự kiện có Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng; đại diện các tổ chức quốc tế: ITU, GSMA, Unicef, Unesco, ILO và World Bank; các đoàn đại biểu ASEAN (Lào, Campuchia, Myanmar, Thái Lan, Brunei, Inđônêxia, Singapo, Philipin và Malaixia); các chuyên gia Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Hoa Kỳ, Vương quốc Anh và EU; các công ty công nghệ số quốc tế: Nokia, Huawei, Samsung, LG, Cisco, Qualcomm, KDDI, Softbank, Red Hat, Kaspersky...

Phát biểu tại lễ khai mạc, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng cho rằng, cuộc di chuyển từ thế giới thực vào thế giới số là công cuộc di chuyển vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại và cũng là thách thức nhất đối với nhân loại. Chuyển đổi số vì thế sẽ là nội dung chính trong Tuần lễ Số quốc tế 2022 được tổ chức lần đầu tiên tại Hà Nội, Việt Nam. Bộ trưởng chia sẻ một không gian sống mới, một môi trường sống mới sẽ cần đến những nguyên tắc mới, luật lệ mới, văn hoá mới. Cái mới thì không có ai đi trước để dạy bảo, mà chỉ có cách là trao đổi và học hỏi lẫn nhau. Vì lý do này mà chủ đề được lựa chọn cho Tuần lễ Số quốc tế đầu tiên là "Đối tác toàn cầu vì một tương lai số bền vững - Global Partnership for the Sustainable Digital Future". Sáng kiến này lần đầu được tổ chức tại Việt Nam và sẽ được duy trì để nó trở thành thường niên của các nước ASEAN, qua đó, mọi người có thể cùng trao đổi về chuyển đổi số, thể chế số, hạ tầng số, công nghệ số, nền tảng số, ứng dụng số, nhân lực số, an toàn số và hợp tác số.

Tuần lễ Số quốc tế Việt Nam-VIDW2022 diễn ra từ ngày 11-14/10, tập trung thúc đẩy và mở rộng các quan hệ đối tác số, với các ưu tiên: hoàn thiện thể chế và môi trường quản lý, đẩy nhanh chuyển đổi số, phát triển công nghiệp công nghệ số, hạ tầng số; xây dựng không gian mạng an toàn và tin cậy; nâng cao kỹ năng số cho người dân.

Trong khuôn khổ VIDW-2022, phiên toàn thể là dịp để cơ quan hoạch định chính sách của các nước chia sẻ các chiến lược, tầm nhìn, định hướng và lộ trình phát triển số, kinh nghiệm quản lý và đo lường kinh tế số, các ưu tiên trong việc xây dựng và thiết lập quan hệ đối tác số với Việt Nam và khu vực.

Cũng trong khuôn khổ Tuần lễ Số quốc tế và hưởng ứng Ngày Chuyển đổi số quốc gia 10/10, Bộ Thông tin và Truyền thông tổ chức toạ đàm Why Viet Nam 2022 với chủ đề "Kinh tế số Việt Nam chủ động hợp tác và hội nhập quốc tế".  Tọa đàm sẽ thảo luận các tiềm năng, cơ hội và giải pháp tăng cường thu hút đầu tư, hỗ trợ thiết lập quan hệ đối tác cho các doanh nghiệp công nghệ số của Việt Nam và các nước.

Theo https://www.vista.gov.vn/news/cac-linh-vuc-khoa-hoc-va-cong-nghe/tuan-le-so-quoc-te-viet-nam-vidw2022-lan-dau-tien-tai-viet-nam-5610.html

7. Phương pháp điều trị đau lưng mãn tính ngăn chặn các tín hiệu thần kinh bằng nhiệt

Đau thắt lưng dai dẳng là một vấn đề gây suy nhược cho hàng triệu người trên thế giới và đây không phải là căn bệnh có thể dễ dàng điều trị. Công nghệ có tên gọi là Intracept sẽ tạo ra bước sóng trong không gian lưng, truyền nhiệt một cách thận trọng đến các đốt sống bị ảnh hưởng để ngăn chặn các tín hiệu thần kinh và ngăn chặn cơn đau mãn tính.

 

Intracept, được phát triển bởi Hãng y tế Relievant Medsystems, dựa trên một thủ thuật xâm lấn tối thiểu để giải quyết nguồn gốc phổ biến của đau vùng lưng dưới phát ra từ đốt sống. Cơn đau này truyền qua dây thần kinh đốt sống chạy qua các đốt sống, bao gồm các mảnh đốt sống và các mảnh sụn và xương ở giữa các đĩa đệm.

Ở bệnh nhân được gây mê, kỹ thuật sẽ đưa một đầu dò nhỏ vào đốt sống bị tác động và sử dụng phương pháp cắt đốt bằng tần số vô tuyến để làm nóng dây thần kinh đốt sống. Điều này ngăn không cho nó truyền tín hiệu đau đến tủy sống và lên não. Toàn bộ quá trình này sẽ mất khoảng một giờ đồng hồ.

Công nghệ Intracept đã nhận được giấy phép của Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) vào năm 2016 và đã tiếp tục cho thấy nhiều hứa hẹn trong một loạt các thử nghiệm lâm sàng. Một cuộc điều trị thử nghiệm liên quan đến 140 bệnh nhân cho thấy có 31% trong số này không bị đau lưng suốt 24 tháng sau khi điều trị. Một cuộc thử nghiệm khác liên quan đến 48 bệnh nhân cho thấy 69% trong số họ báo cáo giảm 50% cơn đau và 38% trong số họ cho biết hoàn toàn không đau sau 12 tháng.

Một thử nghiệm khác cho thấy 34% bệnh nhân không bị đau lại sau 5 năm điều trị. Hãng Relievant Medsystems cho biết sự giảm đau suốt thời gian dài do Intracept mang lại là kết quả bản chất độc nhất của dây thần kinh đốt sống, nó khác với các dây thần kinh khác ở chỗ nó không có khả năng khôi phục lại được khả năng truyền đau của nó.

Khả năng giảm đau của Intracept đã được quan sát bởi các bác sĩ áp dụng công nghệ này tại các trung tâm y tế khác nhau trên khắp Hoa Kỳ, bao gồm các chuyên gia cột sống gần đây tại Trung tâm Y tế Tây Nam Đại học Texas, người đã bắt đầu điều trị cho bệnh nhân vào đầu năm nay.

Ankit Patel, phó giáo sư y học vật lý và phục hồi chức năng cho biết: “Trước khi có phương pháp điều trị này, thật là một thách thức để làm sao có thể đưa ra một lựa chọn điều trị an tâm cho những bệnh nhân bị đau lưng mãn tính do thoái hóa đốt sống cổ của chúng tôi. Cắt bỏ dây thần kinh đốt sống là một phương pháp can thiệp độc đáo và đầy hứa hẹn mà tôi rất vui mừng được cung cấp cho nhiều bệnh nhân của mình. Intracept có thể giúp bệnh nhân của tôi có được chất lượng cuộc sống tốt hơn, giảm sử dụng thuốc giảm đau và tránh phải phẫu thuật điều chỉnh cột sống”.

Patel và các đồng nghiệp của ông có kế hoạch thực hiện các nghiên cứu sâu hơn đối với kỹ thuật này khi họ thực hiện nó để cải thiện khả năng giảm đau lưng ở những người bị mãn tính.

Theo https://newatlas.com/medical/lower-back-pain-treatment-intracept-nerve-signals-heat/

8. Tỷ lệ gãy xương thường cao hơn ở những người bị thiểu năng trí tuệ

Các nhà khoa học tại Đại học Oxford và Oxford Health NHS Foundation Trust đã phát hiện ra tỷ lệ gãy xương ở những người khuyết tật trí tuệ cao hơn đáng kể so với những người cùng độ tuổi và giới tính không bị khuyết tật trí tuệ.

 

Nhóm nghiên cứu đã xem xét tỷ lệ gãy xương được ghi nhận ở thực tế chung hoặc trong hồ sơ bệnh viện, trong khoảng thời gian 20 năm, 1998-2017. Họ đã so sánh tỷ lệ giữa 43.000 người khuyết tật trí tuệ (còn gọi là khuyết tật học tập) và 215.000 người không bị khuyết tật trong suốt cuộc đời.

Nghiên cứu được công bố trên tạp chí eClinicalMedicine cho thấy tỷ lệ gãy xương cao hơn đáng kể ở những người bị khuyết tật trí tuệ. Tỷ lệ gãy xương bắt đầu tăng khi mọi người già đi, nhưng ở những người bị thiểu năng trí tuệ, sự gia tăng bắt đầu sớm hơn nhiều năm so với dự kiến.

Các loại xương bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi gãy xương chỉ ra chứng loãng xương khởi phát sớm là cơ sở cơ bản cho tỷ lệ gia tăng. Tỷ lệ gãy xương hông đặc biệt tăng lên. Tỷ lệ gãy xương hông có thể so sánh được xảy ra sớm hơn khoảng 15 đến 25 năm ở những người bị thiểu năng trí tuệ. Ví dụ, ở tuổi 45, phụ nữ thiểu năng trí tuệ có tỷ lệ gãy xương hông tương đương với phụ nữ 60 tuổi không khuyết tật trí tuệ. Đàn ông 45 tuổi bị thiểu năng trí tuệ có tỷ lệ gãy xương hông tương đương với đàn ông 70 tuổi không bị khuyết tật trí tuệ.

Margaret Smith, nhà thống kê và dịch tễ học cao cấp từ Khoa Khoa học Sức khỏe Chăm sóc Ban đầu Nuffield giải thích thêm: "Chúng tôi ước tính rằng trong 10.000 phụ nữ trên 50 tuổi bị khuyết tật trí tuệ, 53 người sẽ bị gãy xương hông trong hơn một năm so với 23 người ở dân số chung. Đối với nam giới trên 50 tuổi, những con số này lần lượt là 38 và 10”.

Gãy xương hông có sức ảnh hưởng nghiêm trọng đối với cá nhân, thường dẫn đến tàn tật vĩnh viễn về thể chất, có thể dẫn đến tử vong sớm, và gây tốn kém vô cùng lớn cho Dịch vụ Y tế Quốc gia Mỹ (NHS) và chăm sóc xã hội. Nghiên cứu đang được thực hiện bởi cùng một nhóm đang điều tra lý do dẫn đến tỷ lệ gãy xương cao như vậy ở những người khuyết tật trí tuệ. Bao gồm suy giảm khối lượng xương do hạn chế về khả năng vận động và lối sống ít vận động, xu hướng ngã và các tình trạng y tế kèm theo.

Các chiến lược phòng ngừa gãy xương tích cực nên bao gồm khuyến khích tập thể dục thể chất an toàn, giảm nguy cơ té ngã, giải quyết rối loạn y tế đồng thời tồn tại và đảm bảo lượng vitamin D và canxi tối ưu. Cũng có thể có cơ hội để giảm tỷ lệ gãy xương thông qua việc sử dụng rộng rãi những liệu pháp điều trị bằng thuốc hiện có cho bệnh loãng xương. Trong khi đó, hướng dẫn lâm sàng cần được cập nhật để đưa những người bị thiểu năng trí tuệ vào những người có nguy cơ gãy xương do loãng xương, đặc biệt là gãy xương hông.

Tác giả chính Valeria Frighi cho biết: "Nghiên cứu đã xác định được nhu cầu sức khỏe quan trọng và hiện chưa được đáp ứng ở nhóm người thiểu năng trí tuệ. Bác sĩ đa khoa nên xem xét giải quyết vấn đề sức khỏe xương trong quá trình kiểm tra sức khỏe theo luật định hàng năm dành cho người khuyết tật trí tuệ”.

Theo https://medicalxpress.com/news/2022-09-higher-fractures-people-intellectual-disability.html.

9. Mất gen làm tăng khả năng di căn và tiến triển ung thư

Theo một nghiên cứu của hệ thống chăm sóc sức khỏe Northwestern Medicine được công bố trên tạp chí Science Advances, các nhà điều tra đã phát hiện ra rằng sự mất gen SLIT2 trong tế bào khối u đang lưu thông điều chỉnh sự di căn của những khối u ung thư tuyến tiền liệt.

 

Di căn chiếm hầu hết các ca tử vong liên quan đến ung thư, tuy nhiên những cơ chế cơ bản của nó vẫn chưa được hiểu rõ mặc dù đã có nhiều tiến bộ gần đây trong điều trị và chăm sóc ung thư.

Các tế bào khối u tuần hoàn (CTC) thúc đẩy sự di căn của ung thư bằng cách tách ra khỏi khối u nguyên phát và di chuyển theo đường máu để tạo ra khối u mới. Tuy nhiên, việc xác định yếu tố di truyền quy định các tế bào khối u tuần hoàn và giúp chúng xâm nhập vào máu vẫn còn là một rào cản lớn do tính chất hiếm và không đồng nhất của tế bào khối u tuần hoàn.

Tế bào khối u tuần hoàn là tế bào đã đi vào mạch máu hoặc bạch huyết từ khối u nguyên phát và được đưa đi khắp cơ thể trong hệ tuần hoàn máu.

Tiến sĩ Shana Kelley cho biết: "Nếu chúng ta có thể ngăn chặn sự di căn, ung thư sẽ không gây chết người. Hiểu được lý do tại sao tế bào u tuần hoàn vào máu là một bước quan trọng”.

Để khám phá cơ chế thúc đẩy sự di chuyển của tế bào khối u tuần hoàn, nhóm nghiên cứu đã chỉnh sửa gen CRISPR để loại bỏ các gen trong tế bào ung thư tuyến tiền liệt hình thành khối u được cấy vào chuột, với mỗi tế bào bị mất chức năng của một gen trong bộ gen người. Tế bào khối u tuần hoàn được thu thập bằng cách tiếp cận đầu tiên do phòng thí nghiệm của Kelley phát triển để cô lập tế bào u tuần hoàn từ tế bào máu một cách hiệu quả.

Từ việc sàng lọc này, các nhà điều tra đã xác định SLIT2 là gen phổ biến nhất liên quan đến tế bào khối u tuần hoàn. Gen mã hóa protein SLIT2, do đó ảnh hưởng đến quá trình di chuyển của tế bào. Khi các tế bào khối u tuần hoàn loại bỏ SLIT2 được đưa trở lại mô hình chuột, nhóm nghiên cứu nhận thấy rằng số lượng tế bào khối u tuần hoàn tăng lên trong máu của chuột.

Các phát hiện cho thấy rằng sự mất SLIT2 trong tế bào khối u đang lưu thông sẽ thúc đẩy sự di căn và tăng cường sự tiến triển của ung thư. Bước tiếp theo nhóm tác giả thực hiện sẽ liên quan đến việc sàng lọc các gen được kích hoạt, thay vì loại bỏ, để xác định mục tiêu thuốc mới có khả năng làm chậm hoặc ngăn chặn sự di căn.

Tiến sĩ Shana Kelley giải thích thêm: “Chúng tôi biết rằng ở những bệnh nhân nếu mất SLIT2 thì kết quả sẽ kém hơn, vì vậy điều này cho thấy nếu khôi phục lại chức năng SLIT2, có thể ngăn chặn sự di căn xảy ra”.

Theo https://medicalxpress.com/news/2022-09-gene-loss-metastasis-cancer.html.

10. Bộ lọc không khí hiệu suất cao hỗ trợ chống ô nhiễm

Một nhóm các nhà nghiên cứu tại trường Đại học Phúc Châu, Trung Quốc đã thiết kế được bộ lọc không khí hiệu suất cao, có khả năng lọc hiệu quả các chất dạng hạt trong môi trường nhiệt độ cao và ẩm ướt. Kết quả nghiên cứu đã được công bố trên tạp chí Particuology.

 

Bộ lọc từ xốp có tính chất cơ học tuyệt vời và được làm bằng vật liệu thân thiện với môi trường. Miếng xốp có khả năng chống ô nhiễm không khí trong ô tô và trong ngành công nghiệp.

Tăng nguy cơ ô nhiễm không khí

Chất hạt bắt nguồn từ ​​khí thải xe và ống khói công nghiệp, gây ra những mối đe dọa to lớn đối với con người và môi trường, hiện có mặt ở nhiều quốc gia trên thế giới. Ô nhiễm không khí ảnh hưởng đến hệ thần kinh trung ương và hệ hô hấp của con người.

Để giải quyết vấn đề ô nhiễm không khí và cải thiện chất lượng môi trường, trước đây, các nhà nghiên cứu đã chế tạo nhiều bộ lọc không khí hiệu suất cao. Tuy nhiên, các mô hình trước đó đã không hoạt động tốt trong môi trường khắc nghiệt nơi nhiệt độ, độ ẩm cao hoặc nhu cầu lọc trong thời gian dài đặt ra nhiều thách thức.

Chế tạo bộ lọc hiệu suất cao hơn

Để chế tạo bộ lọc không khí hiệu suất cao hơn, nhóm nghiên cứu đã thiết kế một thiết bị thu chất hạt ba chiều. Phương pháp đơn giản này đã được sử dụng để tạo ra một miếng xốp polydimethylsiloxan (PDMS). Sau đó, các nhà khoa học đã phủ lớp polydopamine (PDA) lên khung xốp bằng phương pháp tải tại chỗ.

Khối lượng lớn hạt ZIF-8 đã được đưa lên trên lớp phủ PDA. ZIF-8 là khung kim loại-hữu cơ, loại vật liệu xốp có tính linh hoạt trong cấu trúc và khả năng kiểm soát hóa học. Khung kim loại - hữu cơ có triển vọng ứng dụng để hấp phụ khí và lọc không khí. Các lỗ rỗng dồi dào trong miếng xốp composite tạo ra luồng khí lưu thông tốt, do vậy, các hạt ZIF-8 làm tăng hiệu quả lọc của miếng xốp.

Nhóm nghiên cứu đã thử nghiệm bộ lọc mới trong các điều kiện cần thiết để sử dụng trong việc lọc khí thải của xe. Do miếng xốp dễ định hình và có cấu trúc ổn định, nó có thể được sử dụng trong các tình huống khác nhau khi cần. Trong các thử nghiệm khí thải trên xe, mô phỏng ô nhiễm do các phương tiện giao thông thải ra trong quá trình vận hành bình thường, miếng xốp composite đã đạt được hiệu quả lọc chất hạt với tỷ lệ 99%.

GS. Yuekun Lai tại Đại học Fuzhou và là đồng tác giả nghiên cứu cho biết: “Nghiên cứu này cung cấp một ý tưởng mới để thiết kế bộ lọc không khí 3D hiệu suất cao có thể thích ứng với môi trường khắc nghiệt”. Do miếng xốp composite có độ ổn định cấu trúc tốt và còn dễ tạo hình, nên phù hợp cho nhiều ứng dụng khác nhau, từ ống xả ô tô, ống khói công nghiệp và quạt nhà bếp.

Bước tiếp theo, các nhà khoa học sẽ nghiên cứu các bộ lọc khí có thể thích ứng với nhiệt độ cao hơn, cũng như các cách xử lý một số thành phần của chất ô nhiễm không khí, mà không chỉ lọc chất hạt. Hướng phát triển trong tương lai này sẽ cho phép các nhà nghiên cứu mở rộng các kịch bản ứng dụng của bộ lọc khí và cải thiện tiềm năng ứng dụng thực tế.

Theo https://www.innovationnewsnetwork.com/high-performance-air-filter-will-aid-in-fighting-pollution/25874

  • slideshow_large
  • slideshow_large
  • slideshow_large
  • slideshow_large
  • slideshow_large
Truy cập hôm nay : 17
Truy cập trong 7 ngày :62
Tổng lượt truy cập : 6,379