Banner Ngày 4/5/2024
Thông báo về kết quả trúng tuyển kỳ tuyển dụng viên chức của Trung tâm Ứng dụng Tiến bộ Khoa học và Công nghệ tỉnh Sóc Trăng năm 2023. ( 04/03/2024 )
 14/07/2023 Lượt xem: 181

1. Ăn không theo giờ giấc làm tăng nguy cơ đột quỵ

Đột quỵ là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở phụ nữ và thứ ba ở nam giới. Tuổi trung bình khởi phát đột quỵ là 74 tuổi. Các nhà nghiên cứu Nhật Bản cho biết: Dữ liệu về vai trò của thời gian ăn tối đối với sự phát triển của bệnh tim mạch còn hạn chế. Đó là lý do tại sao họ tiến hành một nghiên cứu để tìm hiểu xem có mối liên hệ nào giữa giờ ăn tối và nguy cơ tử vong do đột quỵ hay không.

 

Trong công trình được công bố trên tạp chí Nutrients, các nhà khoa học đã tuyển dụng 28.625 nam giới và 43.213 phụ nữ, tuổi từ 40 đến 79 tham gia vào nghiên cứu. Những người tham gia không mắc bệnh tim mạch và ung thư khi bắt đầu nghiên cứu. Các tình nguyện viên được chia thành ba nhóm. Các thành viên của nhóm đầu tiên phải ăn trước 20h, những người trong nhóm thứ hai ăn sau 20h và những người còn lại ăn không theo giờ giấc.

Nghiên cứu cho thấy: Trong suốt 19 năm theo dõi, các nhà nghiên cứu Nhật Bản đã xác định được 4.706 trường hợp tử vong do bệnh tim mạch. Các tác giả cho biết: việc áp dụng lịch trình ăn tối không đều đặn, so với ăn tối trước 8 giờ tối, có liên quan đến việc tăng nguy cơ tử vong do đột quỵ xuất huyết - xảy ra khi một mạch máu bên trong hộp sọ vỡ ra và chảy máu vào và xung quanh não. Không có mối liên quan đáng kể nào được tìm thấy giữa thời gian ăn tối và nguy cơ tử vong do các loại đột quỵ khác, chẳng hạn như đột quỵ do thiếu máu cục bộ. Cũng không có bằng chứng nào cho thấy mối liên hệ giữa thời gian ăn và nguy cơ mắc bệnh tim mạch vành hoặc bệnh tim mạch.

Nghiên cứu kết luận, sau khi điều chỉnh các yếu tố rủi ro, những người có thời gian ăn tối không đều đặn có liên quan đến việc tăng nguy cơ tử vong do đột quỵ xuất huyết so với những người ăn tối sớm.

Nguyên nhân chính của đột quỵ xuất huyết là huyết áp cao, có thể làm suy yếu các động mạch trong não và khiến chúng dễ bị tách hoặc vỡ hơn. Những nguyên nhân làm tăng nguy cơ cao huyết áp bao gồm: thừa cân, uống quá nhiều rượu, hút thuốc, thiếu tập thể dục, ăn uống thiếu lành mạnh.

Thời gian ăn tối không điều độ dẫn đến việc tiết nội tiết tố không đều, có thể ảnh hưởng đến lượng đường trong máu và huyết áp. Và như chúng ta đã biết rõ ràng mức huyết áp có liên quan đến đột quỵ xuất huyết cấp tính. Ai cũng biết rằng huyết áp có thể tăng sau bữa tối. Ngoài ra, nếu chúng ta ăn tối quá sát giờ ăn trước đó thì thức ăn không được chuyển hóa tốt. Nó dẫn đến tăng lượng đường trong máu, tăng lắng đọng chất béo, có thể ảnh hưởng đến nguy cơ đột quỵ. Các nghiên cứu sớm nhất đã chứng minh nguy cơ đột quỵ cao hơn đối với những người ăn trong vòng một giờ trước khi ngủ.

Thời điểm thích hợp để ăn tối để tránh nguy cơ đột quỵ là bạn nên ăn tối trước 8 giờ tối. Tập thể dục nhẹ trước khi đi ngủ giúp điều chỉnh lượng đường tốt hơn. Các nhà thần kinh học khuyến nghị một người không nên đi ngủ ngay sau bữa ăn, để giúp hợp lý hóa quá trình tiết nội tiết tố và cân bằng chất dẫn truyền thần kinh có vai trò quan trọng trong việc duy trì huyết áp, cân bằng nội môi đường huyết và giấc ngủ.

Theo vista.gov.vn

2. Một loại “bê tông vũ trũ” mới làm từ tinh bột khoai tây

Hơn 50 năm sau khi con người lần đầu tiên đặt chân lên Mặt trăng, nhân loại đang chuẩn bị thực hiện những bước tiến lớn tiếp theo trong hành trình khám phá vũ trụ. Mặt trăng và sau đó là sao Hỏa, sẽ là điểm đến đầu tiên cho công cuộc định cư ngoài Trái đất của con người.

 

Nhưng việc xây dựng cơ sở hạ tầng trong không gian hiện đang rất tốn kém và gặp nhiều khó khăn. Một trong số những thách thức chính là sản xuất vật liệu cấu trúc có độ bền cao, kết cấu vững chắc, từ các nguồn tài nguyên tại chỗ để cung cấp môi trường sống rộng rãi với khả năng che chắn bức xạ đầy đủ. Chính vì thế các nhà khoa học đến từ Đại học Manchester đã phát triển một loại “bê tông vũ trụ” mới, đặt tên là “StarCrete”, với thành phần bao gồm bụi ngoài Trái đất, tinh bột khoai tây và một chút muối.

Khi trộn với bụi sao Hỏa mô phỏng, các nhà khoa học đã chứng minh được rằng tinh bột khoai tây hoạt động như một chất kết dính cho loại bê tông này. Vật liệu thu được cứng gấp đôi so với bê tông thông thường và có thể được sử dụng để xây dựng các thế giới ngoài vũ trụ. StarCrete có cường độ 72 Megapascal (MPa), trong khi bê tông thông thường có cường độ 32 MPa. Khi được thử nghiệm trộn với bụi Mặt trăng, StarCrete vượt trội hơn tất cả những loại khác ở mức 91 Mpa, nằm trong phạm vi của bê tông cường độ cao (> 42 MPa). Loại bên tông này vượt qua hầu hết các giải pháp công nghệ được đề xuất khác mặc dù đây là một quy trình tiêu tốn năng lượng tương đối thấp. Độ bền uốn của bê tông Mặt trăng là 2,1 MPa, cũng tương đương với bê tông thông thường.

Theo tính toán, một bao khoai tây nặng 25 kg chứa đủ tinh bột để sản xuất gần nửa tấn StarCrete, tương đương 213 viên gạch. Các nhà khoa học cũng phát hiện ra rằng muối thông thường (magiê clorua, được tìm thấy trên sao Hỏa) và nước mắt của các phi hành gia có thể giúp cải thiện thêm độ bền của vật liệu này. Trước đây, nhóm nghiên cứu đã thử nghiệm máu và nước tiểu của con người như một chất kết dính, tuy nhiên, điều này là không thực tế đối với công việc quy mô lớn và sức khỏe của phi hành gia có thể bị nguy hiểm trong môi trường không gian khắc nghiệt.

Trong nghiên cứu này, các nhà khoa học đã sử dụng tinh bột thông thường làm chất kết dính cho khối đá ngoài Trái đất mô phỏng để tạo ra vật liệu tổng hợp sinh học có độ bền cao. Lượng tinh bột dư thừa sau khi sản xuất thức ăn cho cư dân có thể được sử dụng cho xây dựng, tích hợp hai hệ thống quan trọng và đơn giản hóa đáng kể kiến ​​trúc cần thiết để duy trì các vùng lãnh thổ sơ khai ngoài Trái đất của con người.

Hơn nữa, StarCrete có thể là một giải pháp thay thế thân thiện với môi trường hơn so với bê tông truyền thống được sử dụng trên Trái đất. Sản xuất xi măng và bê tông chiếm khoảng 8% lượng khí thải CO2 toàn cầu. Sau khi hoàn thành nghiên cứu này, các nhà khoa học sẽ tiếp tục thử nghiệm tăng cường sức mạnh của StarCrete để sử dụng trong tương lai.

Theo vista.gov.vn

3. Xác định loại trầm cảm bằng cách sử dụng các cuộc khảo sát, kiểm tra nhận thức và chụp ảnh não

Các nhà khoa học tại Đại học Stanford Medicine- Hoa Kỳ đã tiến hành một nghiên cứu mô tả loại trầm cảm mới; được gọi là kiểu sinh học nhận thức; chiếm 27% bệnh nhân trầm cảm và không được điều trị hiệu quả bằng các loại thuốc chống trầm cảm thông thường được kê đơn. Một số nhiệm vụ nhận thức cho thấy những bệnh nhân này gặp khó khăn với khả năng lập kế hoạch trước, thể hiện sự tự chủ, duy trì sự tập trung mặc dù bị phân tâm và ngăn chặn hành vi không phù hợp; hình ảnh cho thấy hoạt động giảm ở hai vùng não chịu trách nhiệm cho những nhiệm vụ đó.

 

Trầm cảm được định nghĩa là một chứng rối loạn tâm trạng, các bác sĩ thường kê đơn thuốc chống trầm cảm nhắm vào serotonin (được gọi là chất ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc hoặc SSRI), nhưng những thuốc này ít hiệu quả hơn đối với bệnh nhân bị rối loạn chức năng nhận thức. Các nhà nghiên cứu cho biết, nhắm vào những rối loạn chức năng nhận thức này bằng thuốc chống trầm cảm ít được sử dụng hơn hoặc những phương pháp điều trị khác có thể làm giảm bớt triệu chứng và giúp khôi phục khả năng xã hội và nghề nghiệp.

Tác giả nghiên cứu, Tiến sĩ Leanne Williams, cho biết: "Một trong những thách thức lớn là tìm ra một cách mới để giải quyết quy trình thử và sai hiện tại để nhiều người có thể khỏi bệnh sớm hơn. Đưa vào các biện pháp nhận thức khách quan như hình ảnh sẽ đảm bảo rằng chúng tôi không sử dụng cùng một phương pháp điều trị cho mọi bệnh nhân”.

Trong nghiên cứu, 1.008 người trưởng thành mắc chứng rối loạn trầm cảm nặng chưa được xác định trước đó đã được sử dụng ngẫu nhiên một trong ba loại thuốc chống trầm cảm điển hình được kê đơn rộng rãi: escitalopram (tên thương hiệu Lexapro) hoặc sertraline (Zoloft), tác động lên serotonin hoặc venlafaxine-XR (Effexor), tác động lên serotonin, trên cả serotonin và norepinephrine. 712 người tham gia đã hoàn thành chế độ tám tuần.

Trước và sau khi điều trị bằng thuốc chống trầm cảm, các triệu chứng trầm cảm của những người tham gia được đo lường bằng hai cuộc khảo sát: một là do bác sĩ thực hiện và cuộc khảo sát còn lại là tự đánh giá, bao gồm những câu hỏi liên quan đến thay đổi trong giấc ngủ và ăn uống. Các biện pháp về chức năng xã hội và nghề nghiệp, cũng như chất lượng cuộc sống, cũng được theo dõi. Tình nguyện viên tham gia cũng đã hoàn thành một loạt những bài kiểm tra nhận thức, trước và sau khi điều trị, đo lường trí nhớ bằng lời nói, trí nhớ làm việc, tốc độ ra quyết định và sự chú ý liên tục, trong số các nhiệm vụ khác.

Trước khi điều trị, các nhà khoa học đã quét 96 người tham gia bằng cách sử dụng hình ảnh cộng hưởng từ chức năng khi họ tham gia vào một nhiệm vụ gọi là "GoNoGo" yêu cầu người tham gia nhấn một nút càng nhanh càng tốt khi họ nhìn thấy chữ "Go" màu xanh lục và không nhấn khi họ nhìn thấy "NoGo" màu đỏ. Máy fMRI theo dõi hoạt động của tế bào thần kinh bằng cách đo lường những thay đổi về nồng độ oxy trong máu, cho thấy mức độ hoạt động ở các vùng não khác nhau tương ứng với phản ứng GoNoGo. Sau đó, các nhà nghiên cứu so sánh hình ảnh của những người tham gia với hình ảnh của những người không bị trầm cảm.

Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng 27% số người tham gia có những triệu chứng nổi bật hơn về nhận thức chậm và mất ngủ, suy giảm chức năng nhận thức trong các bài kiểm tra hành vi, cũng như giảm hoạt động ở một số vùng não trước.

Tiến sĩ Laura Hack cho biết: “Nghiên cứu này rất quan trọng vì các bác sĩ tâm thần có ít công cụ đo lường mức độ trầm cảm để giúp đưa ra quyết định điều trị. Chủ yếu là thực hiện một số biện pháp quan sát và tự báo cáo. Hình ảnh trong khi thực hiện nhiệm vụ nhận thức là điều khá mới lạ trong các nghiên cứu điều trị trầm cảm”.

fMRI trước khi điều trị cho thấy những người có kiểu sinh học nhận thức đã giảm đáng kể hoạt động ở vùng vỏ não trước trán và vùng lưng phía trước vùng thắt lưng trong nhiệm vụ “Go or NoGo” so với mức độ hoạt động ở những người tham gia không có kiểu gen nhận thức. Cùng với nhau, hai vùng tạo thành mạch kiểm soát nhận thức, chịu trách nhiệm hạn chế những suy nghĩ và phản ứng không mong muốn hoặc không liên quan, đồng thời cải thiện việc lựa chọn mục tiêu, trong số các nhiệm vụ khác.

Sau khi điều trị, các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng đối với ba loại thuốc chống trầm cảm được sử dụng, tỷ lệ thuyên giảm tổng thể; không có các triệu chứng trầm cảm tổng thể là 38,8% đối với những người tham gia có kiểu gen mới được phát hiện và 47,7% đối với những người không có nó. Sự khác biệt này nổi bật nhất đối với sertraline, với tỷ lệ thuyên giảm lần lượt là 35,9% và 50% đối với những người có kiểu gen và những người không có.

Tiến sĩ Leanne Williams giải thích: "Trầm cảm thể hiện theo những cách khác nhau ở những người khác nhau, nhưng việc tìm ra các điểm chung; chẳng hạn như cấu hình tương tự của chức năng não; giúp các chuyên gia y tế điều trị hiệu quả cho những người tham gia bằng cách cá nhân hóa việc chăm sóc".

Nhóm tác giả đề xuất rằng đo lường hành vi và hình ảnh có thể giúp chẩn đoán các kiểu sinh học trầm cảm và dẫn đến điều trị tốt hơn. Một bệnh nhân có thể hoàn thành một cuộc khảo sát trên máy tính của chính họ hoặc tại văn phòng bác sĩ và nếu được phát hiện có một kiểu sinh học nhất định, họ có thể được chuyển đến hình ảnh để xác nhận trước khi tiến hành điều trị.

Nghiên cứu được công bố trên tạp chí JAMA Network Open, là một phần trong nỗ lực rộng lớn hơn của các nhà thần kinh học nhằm tìm ra phương pháp điều trị nhắm vào những kiểu sinh học trầm cảm.

Theo vista.gov.vn

4. Nghiên cứu bệnh nhiễm trùng huyết do vi khuẩn Riemerella anatipestifer gây ra trên gia cầm và đề xuất biện pháp phòng trị

Nhiễm trùng huyết do vi khuẩn Riemerella anatipestifer (RA) là bệnh truyền nhiễm trên vịt nuôi, ngỗng, gà tây và một số loài gia cầm khác - đây là một trong những bệnh gây thiệt hại về kinh tế lớn cho ngành chăn nuôi, đực biệt là chăn nuôi vịt trên toàn thế giới. Vịt mắc bệnh thường có tỷ lệ chết rất cao (đến 90%), tỷ lệ chuyển hóa thức ăn thấp, giảm tăng trọng, giảm chất lượng thịt. Ở nước ta, bệnh nhiễm trùng huyết chưa được nghiên cứu và đánh giá một cách đầy đủ. Các ổ dịch vẫn thường xuyên xảy ra ở các trang trại và hộ chăn nuôi vịt, gây thiệt hại đáng kể cho người chăn nuôi.

 

Ở nước ta, bệnh nhiễm trùng huyết do RA gây ra trên vịt chưa được nghiên cứu và đánh giá một cách đầy đủ. Các ổ dịch nhỏ vẫn thường xuyên xảy ra ở các trang trại và hộ chăn nuôi vịt, gây thiệt hại đáng kể cho người chăn nuôi. Theo Bùi Hữu Dũng và cs. (2016), khi xác định sự hiện diện của vi khuẩn RA từ các ca bệnh nhiễm trùng huyết trên vịt tại một số tỉnh phía nam bằng phương pháp PCR cho thấy có 25/37 trại và 41/76 mẫu dương tính với RA, tương ứng với 67,57% và 53,94%. Năm 2018, Lý Thị Liên Khai và Nguyễn Hiền Hậu đã phân lập vi khuẩn RA trên 150 mẫu bệnh phẩm vịt nghi mắc bệnh nhiễm trùng huyết tại tỉnh Bến Tre cho thấy có 76 mẫu dương tính, chiếm tỷ lệ 50,6%. Đây là 2 nghiên cứu đầu tiên công bố về tình hình bệnh nhiễm trùng huyết do vi khuẩn RA gây ra trên vịt tại Việt Nam. Tuy nhiên, cho đến hiện tại, chưa có bất kỳ quy trình phòng, trị bệnh nhiễm trùng huyết do vi khuẩn RA gây ra trên vịt được ban hành ở Việt Nam

Xuất phát từ thực tiễn trên, Cơ quan chủ trì Phân Viện Thú y Miền Trung cùng phối hợp với Chủ nhiệm đề tài TS. Võ Thành Thìn thực hiện “Nghiên cứu bệnh nhiễm trùng huyết do vi khuẩn Riemerella anatipestifer gây ra trên gia cầm và đề xuất biện pháp phòng trị” với mục tiêu: Xác định được tình hình bệnh nhiễm trùng huyết do vi khuẩn RA gây ra trên gia cầm (gà, vịt), khả năng mẫn cảm kháng sinh của vi khuẩn RA và một số đặc điểm dịch tễ của bệnh để cung cấp cơ sở khoa học cho xây dựng giải pháp phòng, trị bệnh phù hợp.

Địa điểm thu mẫu nghiên cứu được dựa trên thống kê số lượng tổng đàn gà, vịt và thông tin có được về tình hình nghi bệnh nhiễm trùng huyết trên gà, vịt tại các địa phương tại thời điểm nghiên cứu. Địa điểm thu mẫu sẽ đại diện cho các vùng sinh thái miền Bắc, miền Trung và miền Nam. Qua khảo sát, địa điểm lấy mẫu phù hợp với mục đích của đề tài là Thái Bình, Thanh Hóa, Bình Định và Long An. Đây là những địa phương có tổng đàn lớn (Thái Bình: 8,75 triệu con gà, 2,48 triệu con vịt; Thanh Hóa: 13,41 triệu con gà, 3,9 triệu con vịt; Bình Định: 4,97 triệu con gà, 1,77 triệu con vịt; Long An: 4,86 triệu con gà, 1,82 triệu con vịt), ổn định, sản phẩm chăn nuôi được xuất đi nhiều địa phương khác trong cả nước (Thống kê chăn nuôi Việt Nam, 01/10/2017). Đồng thời, bệnh nhiễm trùng huyết do vi khuẩn RA được ghi nhận là đã xuất hiện tại đây. Công tác thu thập mẫu được phối hợp với cán bộ thú y tại các địa điểm đã chọn. Bên cạnh đấy, mẫu còn được lấy trực tiếp từ các ổ dịch, ca bệnh xảy ra ở các địa phương khác khi có thông tin về dịch bệnh.

Phân viện thú y miền Trung được trang bị đầy đủ các thiết bị phục vụ cho việc phân lập và định danh vi khuẩn như hệ thống tủ ấm 370C, tủ ấm CO2, hệ thống định danh vi khuẩn tự động (Vitek 2). Các cán bộ tham gia đề tài có trình độ cao, được đào tạo chuyên sâu về lĩnh vực vi sinh vật tại nước ngoài như Bỉ, Úc, Thái Lan, Hàn Quốc. Hơn nữa, các cán bộ này đã từng tham gia nhiều đề tài 15 nghiên cứu như “Nghiên cứu dịch tễ học và sự lưu hành của Leptospira trên lợn tại khu vực Nam Trung bộ - Tây Nguyên và xây dựng biện pháp phòng chống”, “Nghiên cứu chế tạo vắc-xin phòng các thể bệnh viêm ruột tiêu chảy do Clostridium perfringens gây ra ở bò, dê, cừu”, “Nghiên cứu bệnh tiêu chảy bê sữa do E. coli, Salmonella và Clostridium perfringens, chế tạo sinh phẩm phòng bệnh”, “Xác định vi khuẩn gây viêm phổi bê nghé, xây dựng biện pháp phòng trị thích hợp”,… Để phân lập và định danh vi khuẩn RA, đề tài sử dụng các phương pháp dựa theo các nghiên cứu đã được công bố và TCVN 8400-40:2016. Đây là những kỹ thuật mà các cán bộ tham gia đề tài có rất nhiều kinh nghiệm. Do đó, đảm bảo hoàn thành các nội dung của đề tài đặt ra.

Ở Việt Nam, bệnh do vi khuẩn RA gây ra chưa phát thành các ổ dịch lớn. Tuy nhiên, bệnh cũng thường xảy ra và gây thiệt hại lớn cho người chăn nuôi. Theo Bùi Hữu Dũng và cs. (2016), khi xác định sự hiện diện của vi khuẩn RA từ các ca bệnh bại huyết trên vịt tại các tỉnh Bến Tre, Tiền Giang, Bình Dương, Tp. Hồ Chí Minh, Vũng Tàu bằng phương pháp PCR cho thấy có 25/37 trại và 41/76 mẫu dương tính với RA, tương ứng với 67,57% và 53,94%. Kết quả cũng cho thấy vịt nhiễm RA thường bị rối loạn vận động (68,4%), rối loạn hô hấp (60,5%), tiêu chảy phân loãng nhiều nước (44,7%). Bệnh tích đại thể thường gặp nhất là viêm đa màng và xoang (81,6%), lách sưng lớn (44,7%). Biến đổi vi thể chủ yếu là xung huyết, xuất huyết, tích fibrin và sự xâm nhiễm bạch cầu ở phổi, gan, tim (100%), não (57,1%) cùng với sự suy giảm các tế bào lympho ở lách (100%).

Sau thời gian nghiên cứu, đề tài đã thu được những kết quả như sau:

Đã phân lập, định danh và lưu giữ được 69 vi khuẩn RA từ vịt có triệu chứng nghi mắc bệnh nhiễm trùng huyết. Tỷ lệ vịt mang trùng là 4,02%. Tỷ lệ vịt có triệu chứng nghi mắc bệnh dương tính với vi khuẩn RA là 35,04%. - Độ tuổi vịt mẫn cảm nhất là ≤ 8 tuần tuổi (47,37%), tiếp theo là > 8 - 21 tuần tuổi (34,31%) và > 21 tuần tuổi (23,91%); tỷ lệ nhiễm vi khuẩn RA cao nhất ở nhóm vịt nuôi theo phương thức chăn thả (43,84%), tiếp theo là nhóm nuôi bán chăn thả (33,6%) và nuôi nhốt (27,01%).

Các chủng vi khuẩn RA phân lập phát triển tốt trên môi trường thạch máu, thạch chocolate, BHI trong điều kiện 37oC sau 24 - 48 giờ. Vi khuẩn không 15 lên men tất cả các loại đường trong môi trường nuôi cấy, có phản ứng Catalase và Oxidase dương tính.

- Vi khuẩn thuộc các serotype 1, 6, 8, 10 và 20. Trong đó, serotype 10 chiếm ưu thế (31,88%).

- Vi khuẩn RA có mang một số gen quy định yếu tố độc lực như ompA (100%), dnaB (100%), AS87_01735 (92,75%), gldK (85,51%) và M949_1360 (21,74%).

- Vi khuẩn RA có độc lực cao trên vịt. Vịt xuất hiện triệu chứng đầu tiên sau 24 giờ gây nhiễm và chết trong vòng 24 - 48 giờ tiếp theo. Các triệu chứng điển hình xuất hiện trên trên vịt gây nhiễm là vịt lờ đờ, bỏ ăn, tiêu chảy phân xanh, chảy nước mũi, sưng phù đầu - cổ, ngoẹo cổ, rung đầu - cổ, đi lại khó khăn, thường nằm ngửa, 2 chân duỗi ra như bơi. Liều gây chết LD50 trên vịt từ 1,5 x 108 - 6,4 x 108 CFU/con. Đường gây nhiễm tốt nhất là tiêm bắp thịt và dưới da.

- Vi khuẩn RA không thể hiện độc lực trên chuột nhắt trắng và chỉ gây bệnh nhẹ trên gà thí nghiệm (gà lờ đờ, ăn ít 2 ngày, hồi phục sau 2 ngày).

Vi khuẩn RA mẫn cảm cao với Amoxicillin/clavulanic acid (100%), Ceftiofur (100%), Imipenem (100%) và Florfenicol (91,3%). Tỷ lệ chủng vi khuẩn kháng lại các loại kháng sinh Nalidixic acid, Streptomycin và Norfloxacin lần lượt là 89,9%, 75,4% và 72,5%. Đã phát hiện một số gen kháng kháng sinh floR, sulII và aac(6')-Ib-cr trên một số chủng vi khuẩn.

Đã xây dựng được quy trình phòng, trị bệnh nhiễm trùng huyết do vi khuẩn RA trên vịt. Quy trình sử dụng các loại thuốc sát trùng thông dụng trong thú y có thành phần hoạt chất là Benzalkonium 15%/Glutaraldehyde 15%, Virkon và Iodine 10%; sử dụng các loại kháng sinh Amoxicillin/clavulanic acid và Ceftiofur. Cả 3 phác đồ đều cho hiệu quả điều trị cao trên vịt với tỷ lệ vịt khỏi bệnh khi điều trị trong điều kiện chăn nuôi thực tế lần lượt là 94,75% (Amoxicillin/clavulanic acid, tiêm bắp), 94,25% (Ceftiofur, tiêm bắp) và 88,38% (Amoxicillin/clavulanic acid, cho uống).

Có thể tìm đọc báo cáo kết quả nghiên cứu (mã số 18568/2021) tại Cục Thông tin khoa học và công nghệ quốc gia.

Theo vista.gov.vn

5. Nghiên cứu cơ sở khoa học và giải pháp ứng dụng trí tuệ nhân tạo để nhận dạng, hỗ trợ dự báo và cảnh báo một số hiện tượng khí tượng thủy văn nguy hiểm trong bối cảnh biến đổi khí hậu tại Việt Nam

Tại Việt Nam, kể từ năm 2000, khi mô hình dự báo thời tiết số đầu tiên HRM bắt đầu được đưa vào chạy dự báo tại Việt Nam, cho đến nay có nhiều mô hình khác nhau đang được chạy nghiên cứu hay dự báo thử nghiệm tại Việt Nam như HRM, Eta, RAMS, HRM, MM5, WRF... Tuy nhiên, tại các đơn vị sử dụng mô hình dự báo, sản phẩm dự báo cuối cùng vẫn là sản phẩm dự báo trực tiếp từ mô hình, chưa có bất kỳ hiệu chỉnh nào. Mặc dù đã có rất nhiều nghiên cứu trong nước áp dụng các phương pháp thống kê cổ điển và hiện đại để nâng cao chất lượng dự báo các yếu tố khí tượng. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có nghiên cứu nào về ứng dụng AI cho bài toán dự báo khí tượng ở Việt Nam.

 

Vì thế, nhóm nghiên cứu của ThS. Ngô Văn Mạnh tại Trung tâm Thông tin và Dữ liệu Khí tượng thủy văn đã thực hiện đề tài: “Nghiên cứu cơ sở khoa học và giải pháp ứng dụng trí tuệ nhân tạo để nhận dạng, hỗ trợ dự báo và cảnh báo một số hiện tượng khí tượng thủy văn nguy hiểm trong bối cảnh biến đổi khí hậu tại Việt Nam”  từ năm 2018 đến năm 2020.

Đề tài hướng đến thực hiện các mục tiêu sau:

- Xác định và đưa ra được cơ sở khoa học và giải pháp ứng dụng của trí tuệ nhân tạo để nhận dạng và dự báo một số hiện tượng khí tượng thủy văn (KTTV) nguy hiểm trong bối cảnh biến đổi khí hậu tại Việt Nam. 

- Đề xuất và ứng dụng được một số mô hình trí tuệ nhân tạo để nhận dạng và dự báo một số hiện tượng KTTV nguy hiểm gồm bão, mưa lớn diện rộng, không khí lạnh, lũ, nước biển dâng do bão.

- Xây dựng được hệ thống nhận dạng, hỗ trợ dự báo và cảnh báo một số hiện tượng KTTV nguy hiểm dựa trên mô hình trí tuệ nhân tạo phù hợp và bước đầu triển khai thử nghiệm trong dự báo nghiệp vụ.

Đề tài đã thu được một số kết quả khoa học chính như sau:

1. Đã nghiên cứu đánh giá tổng quan về AI và dữ liệu lớn Big data; đã đánh giá hiện trạng, xu thế phát triển và ứng dụng của AI và Big data trong các ngành và lĩnh vực KTTV ở Việt Nam và ở một số nước trên thế giới như ngoài nước Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc...

2. Đã xác định được cơ sở khoa học, thực tiễn của các kỹ thuật học máy và AI trong nhận dạng, hỗ trợ dự báo, cảnh báo một số hiện tượng KTTV nguy hiểm gồm: (i) Phương pháp lưu trữ và xử lý dữ liệu; (ii) Phương pháp trích rút đặc trưng về dữ liệu về hiện tượng KTTV; (iii) Các mô hình học máy (ML), AI hỗ trợ dự báo KTTV (iv) Phương pháp xác định độ tin cậy của các mô hình ML, AI hỗ trợ dự báo KTTV; Phương pháp ra quyết định dự báo bằng trong công nghệ AI.

3. Đã xây dựng được hệ thống Big data về KTTV phục vụ hệ thống AI dự báo một số các hiện tượng thời tiết nguy hiểm gồm: số liệu khí tượng bề mặt của các trạm trên phạm vi cả nước; số liệu thủy văn của các trạm trên hệ thống sông Hồng; số liệu hải văn của các trạm ven biển Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ; số liệu tái phân tích và số liệu viễn thám trong thời gian 10 năm giai đoạn 2008-2017.

4. Đã phát triển được các phương pháp, công cụ cho các mô hình AI dự báo một số hiện tượng KTTV nguy hiểm gồm: (i) các phương pháp, công cụ xử lý dữ liệu KTTV; (ii) Các phương pháp, công cụ trích rút đặc trưng về dữ liệu KTTV; (iii) Các phương pháp, công cụ mô hình ML, AI để huấn luyện dự báo KTTV; (iv) Các phương pháp, công cụ để tối ưu hóa cấu hình, tham số và xác định độ tin cậy của các mô hình ML, AI hỗ trợ dự báo KTTV; (v) Các phương pháp, công cụ giải thích và ra quyết định thống kê trong mô phỏng quá trình dự báo KTTV bằng công nghệ AI.

5. Đã nghiên cứu ứng dụng công cụ Cray PE DL Plugin trong bài toán học sâu (DL) để mở rộng quy mô học DL tới một số lượng lớn các node trong hệ thống, qua đó giảm đáng kể thời gian học cho mạng nơ ron và tăng tính hiệu quả của DL khi đưa vào ứng dụng thực tế trong các mô hình AI dự báo KTTV. Nhất là trong giai đoạn hiện nay khi yêu cầu về các thông tin dự báo, cảnh báo KTTV thời gian thực, thời gian cực ngắn trong khoảng 30 phút - 1h.

6. Đã nghiên cứu xây dựng và triển khai các hệ thống AI hỗ trợ dự báo các hiện tượng KTTV nguy hiểm gồm: Hệ thống AI để hỗ trợ dự báo bão, mưa lớn diện rộng và không khí lạnh khu vực Bắc Bộ; Hệ thống AI để hỗ trợ dự báo lũ trên hệ thống sông Hồng; Hệ thống AI để hỗ trợ dự báo nước biển dâng do bão khu vực ven biển Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ; Hệ thống framework tích hợp các module AI dự báo KTTV.

7. Đã tiến hành chuyển giao, đào tạo và thử nghiệm đánh giá khả năng áp dụng của: Hệ thống AI hỗ trợ dự báo bão, mưa lớn diện rộng, không khí lạnh; Hệ thống AI để hỗ trợ dự báo lũ; Hệ thống AI để hỗ trợ dự báo nước biển dâng do bão tại Trung tâm Dự báo KTTV quốc gia, các Đài KTTV khu vực Đông Bắc, Đồng bằng Bắc bộ, Bắc Trung Bộ.

Sản phẩm của đề tài sẽ được xây dựng thành các công cụ phần mềm để hỗ trợ cho các chuyên gia trong công tác dự đoán, dự báo các hiện tượng khí hậu bất thường nói trên, và được tiến hành triển khai thử nghiệm để đánh giá hiệu quả trong thực tế.

Có thể tìm đọc báo cáo kết quả nghiên cứu (mã số 18621/2020) tại Cục Thông tin khoa học và công nghệ quốc gia.

Theo vista.gov.vn

6. Thủy phân phế phẩm da bò làm thức ăn chăn nuôi và phân bón sinh học

Từ những mảnh da thuộc phế phẩm tưởng chừng phải kết thúc vòng đời trong bãi rác, ông Đặng Tiến Dũng và các cộng sự tại Công ty TNHH Giải pháp Công nghệ Sau thu hoạch đã xử lý chúng để tạo ra nguyên liệu có lợi cho ngành nông nghiệp với giá cả phải chăng.

 

Thuộc da vốn nổi tiếng là ngành công nghiệp gây ô nhiễm môi trường nặng nề. Ngay từ bước sản xuất, hóa chất được sử dụng trong các mỗi công đoạn theo nguồn nước thải ngấm vào nguồn nước ngầm, ngấm vào đất, một phần bay hơi dưới tác động của tự nhiên, gây ô nhiễm cả 3 môi trường nước, đất, không khí.

Thuở ban đầu, người xưa thường căng da sống trên các khung và ngâm chúng trong tanin tự nhiên (một lớp các hóa chất polyphenol làm se có trong vỏ cây và lá của nhiều loài thực vật) để khử nước trong da, thay thế các phân tử nước và các liên kết trong collagen. Quá trình thuộc da truyền thống này đỏi hỏi các quy trình lắp đi lặp lại và thường mất ít nhất một đến hai tháng để hoàn thành.

Khi ngành công nghiệp ngày càng phát triển và nhu cầu sử dụng da thuộc không ngừng tăng lên, phương pháp này không còn được ưa thích vì mất quá nhiều thời gian, không đáp ứng được số lượng. Năm 1858, phương pháp thuộc da sử dụng chrome sulfate ra đời và ngay lập tức trở nên phổ biến. Nó dẻo dai hơn so với phương pháp thủ công, nhiều màu sắc phong phú hơn, thời gian thuộc nhanh hơn và chi phí rẻ hơn.

Trong quá trình sản xuất, các nhà máy đã thải ra hàng đống các mảnh da thuộc dư thừa ra ngoài, mà không tìm ra phương án giúp giải quyết những phế phẩm này. Những mảnh da thuộc này rất khó phân hủy. Thêm vào đó, chúng chứa chrome - vốn rất độc và hại, do đó sẽ gây ảnh hưởng xấu đến môi trường tự nhiên và sức khỏe con người.

“Làm thế nào để tận dụng những phế phẩm da thuộc chứa chrome này?” ông Đặng Tiến Dũng (Giám đốc vận hành Công ty TNHH Giải pháp Công nghệ Sau thu hoạch) đã tự hỏi mình như vậy sau khi lắng nghe vấn đề mà những chuyên gia trong lĩnh vực da thuộc gặp phải.

Với mong muốn tạo ra một quy trình công nghệ giúp giải quyết phế phẩm da bò trong ngành công nghiệp dệt may, biến thành sản phẩm có giá trị kinh tế, ông và các cộng sự đã bắt tay vào thử nghiệm các phương án khác nhau. “Ban đầu, chúng tôi thí nghiệm ngâm da bò trong nước, đưa vào sóng siêu âm để đưa da thuộc quay lại trạng thái da bò tươi ban đầu, sau đó cho ấu trùng ruồi lính đen và con vịt ăn thì chúng đều bị ngộ độc”, một thành viên trong nhóm nghiên cứu chia sẻ tại hội thảo giới thiệu “Công nghệ thủy phân phế phẩm da thuộc làm thức ăn cho ruồi lính đen, chăn nuôi thủy hải sản và phân bón sinh học” do Trung tâm Thông tin và Thống kê Khoa học và Công nghệ (CESTI, thuộc Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM) tổ chức vào tháng sáu vừa qua.

Điều này cho thấy trong da bò hiện có chrome gây hại cho sức khỏe người và động vật. Nhóm nghiên cứu cần phải tìm cách loại bỏ được kim loại này khỏi da thuộc. Họ thử cắt nhỏ da thành kích thước khoảng 1-2 cm, sau đó đem đi rửa. Kế đến đem ngâm trong bồn dung dịch hóa chất (thứ nhất) kết hợp với siêu âm và nhiệt độ để phá vỡ liên kết của cherom với da bò giúp cho chrome ở trạng thái tự do.

Sau đó da bò được vắt khô và ngâm vào bồn dung dịch hóa chất (thứ hai) kết hợp với khuấy để chrome ở trạng thái tự do hòa tan hoàn toàn vào trong dung dịch. Sau khi chrome đã hòa tan hoàn toàn vào dung dịch, nhóm đem lọc thu được da bò đã loại bỏ gần như không còn chrome rồi đem rửa sạch, từ đó sẽ thu được da bò nguyên chất không còn chrome.

Da bò này tiếp tục được ngâm vào dung dịch (thứ ba) kết hợp với gia nhiệt khuấy trộn để gelatin hóa da bò làm cho trương nở và mềm, sau đó đem lọc và rửa sạch rồi đem trộn với hệ vi sinh và đem ủ để chuyển hóa các hợp chất hữu cơ thành các đơn chất và tạo mùi thơm giúp cho gia súc hoặc ấu trùng dễ dàng chuyển hóa hoàn toàn thức ăn này.

Bên cạnh đó, da bò còn được xay nhỏ làm nguyên liệu thức ăn trực tiếp nuôi ruồi lính đen và bổ sung đạm trong thức ăn chăn nuôi thủy hải sản. Sản phẩm sau thủy phân phối trộn các chất khoáng như sắt, đồng, kẽm, mangan... thực hiện phản ứng chelatropic tạo phân bón chelate axit amin, là nguồn dinh dưỡng cần thiết cho sự sinh trưởng và phát triển của cây trồng. Theo đó, quy trình công nghệ kể trên khi được triển khai sẽ giúp giải quyết phế phẩm da bò trong ngành công nghiệp dệt may, biến thành sản phẩm có giá trị kinh tế.

Hỗ trợ cho một ngành công nghiệp tiềm năng

Nhóm nghiên cứu đã thử nghiệm sản phẩm trên một số lượng nhỏ ruồi lính đen, thủy hải sản, cây trồng. Kết quả mang lại rất tích cực, đó là lý do ông Đặng Tiến Dũng mong muốn có thể triển khai công nghệ này ra ngoài thực tế với quy mô lớn hơn, bởi “nhu cầu xử lý phế phẩm da thuộc hiện rất lớn, chúng bị đổ bỏ ngoài môi trường rất nhiều, chất đống thành cả ngàn tấn để chờ môi trường phân hủy”, ông bày tỏ. Bên cạnh quá trình chuyển giao công nghệ như các bí quyết về công nghệ, kiến thức dưới dạng phương án công nghệ, các giải pháp kỹ thuật, quy trình công nghệ, tài liệu thiết kế sơ bộ và thiết kế kỹ thuật, công thức, thông số kỹ thuật, v.v., hiện nay Công ty TNHH Giải pháp Công nghệ Sau thu hoạch còn đồng hành đầu tư theo các phương án 30-70% tổng giá trị công nghệ.

Chỉ xét trên nhu cầu mở rộng ngành công nghiệp nuôi ruồi lính đen tại Việt Nam, ta đã có thể thấy được tiềm năng của sản phẩm từ da thuộc này. Ruồi lính đen (Hermetia Illucens) là một trong những loại côn trùng được các nhà nghiên cứu đánh giá là loài có ích. Loài vật này có khá nhiều công dụng và ứng dụng trong thực tế. Tại Việt Nam, bột ruồi lính đen được sử dụng để thay thế bột cá trong thức ăn công nghiệp trong nuôi trồng thủy sản, ấu trùng tươi ruồi lính đen được sử dụng trực tiếp để nuôi cá, gà, vịt, lươn. Trong khi đó, phân ruồi lính đen thì được sử dụng làm phân bón hữu cơ trong nông nghiệp.

Trong những năm trở lại đây, ngành sản xuất ấu trùng ruồi lính đen đang phát triển tăng vọt. Nhiều công ty quốc tế đã đến Việt Nam để lập nhà máy quy mô lớn sản xuất thức ăn chăn nuôi từ ấu trùng ruồi lính đen. Thành phần dinh dưỡng của ruồi lính đen trước giai đoạn hóa nhộng là: 43 - 51% protein, 15 - 18% chất béo, 2.8 - 6.2% canxi, 1 - 1.2% phốt pho, đủ chất dinh dưỡng làm thức ăn chăn nuôi,… đồng thời là thức ăn sống tốt nhất để nuôi các động vật đặc sản như tôm, cua, cá, lươn, ếch.

Không chỉ ông Đặng Tiến Dũng, mà rất nhiều nhà khoa học cũng đang tìm cách tận dụng các phụ phẩm phù hợp làm thức ăn nuôi ruồi lính đen. Ấu trùng ruồi lính đen sinh trưởng rất nhanh và thức ăn của chúng khá đa dạng như các loại thức ăn thừa, rác thải thực phẩm như vỏ trái cây, vỏ rau củ, phụ phẩm nông nghiệp như ác bia, xác bã đậu nành…

GS.TS Dương Nguyên Khang (trường Đại học Nông Lâm TP.HCM) gần đây cho biết, các nhà khoa học của Trường ĐH Nông Lâm TP.HCM đã hoàn thiện quy trình nuôi ruồi lính đen tận dụng rác thải nông nghiệp. Trường đã phối hợp huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang tổ chức Hội thảo tập huấn chuyển giao ứng dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp, mô hình nuôi ruồi lính đen cho người dân tại hai xã Bình Nhì và Vĩnh Hựu.

Sau khi hướng dẫn kỹ thuật nuôi, các nhà khoa học sẽ hỗ trợ 50 người dân của hai xã trên mỗi người 8 gram ấu trùng, 3 khay nhựa và hơn 3 kg xác bia, xác bã đậu nành để làm thức ăn cho ruồi lính đen.

Những mô hình nuôi ruồi lính đen từ phụ phẩm ngành may mặc, rác thải hữu cơ này có thể áp dụng rộng rãi trong cộng đồng. Mô hình này giúp nông dân phát triển kinh tế, tạo ra sản phẩm sạch, an toàn, chất lượng và còn giúp bảo vệ môi trường. Quá trình nuôi ruồi lính đen góp phàn phân hủy rác thải và hoàn toàn không tạo mùi khó chịu ra môi trường xung quanh.

Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu cũng cần thận trọng trong việc phát triển các công nghệ này, bởi “bên trong da thuộc không chỉ có chrome còn có những kim loại nặng gây hại khác tồn tại nhưng chưa được lọc sạch” - một chuyên gia góp ý tại hội thảo. Bên cạnh đó, cần phải tiến hành các nghiên cứu sâu hơn để đánh giá thành phần dinh dưỡng bên trong da thuộc và nên dùng với liều lượng và công thức bao nhiêu để phù hợp với mô hình chăm sóc ruồi lính đen, thủy hải sản và cây trồng về lâu dài.

Theo khoahocphattrien.vn

7. Quy trình công nghệ sản xuất trà lá tre

Với quy trình đơn giản, có thể áp dụng ở quy mô nhỏ lẫn quy mô công nghiệp, công nghệ sản xuất trà lá tre của ThS. Trần Chí Thành (Công ty TNHH MTV Sắc Mộc Tinh) không chỉ mang lại những lợi ích về mặt sức khỏe mà còn hướng đến nâng cao giá trị cho ngành tre Việt Nam.

 

Tại sao vào mỗi dịp Tết Đoan ngọ, người ta lại thường ăn những chiếc bánh ú tro gói lá tre? Nhiều người cho rằng thời tiết lúc này là mùa hè oi bức, dễ bị mệt mỏi, ốm đau. Do vậy, cần những đồ ăn có tính mát như để thanh nhiệt, giải độc cho cơ thể. Cách lý giải này bắt nguồn từ một trong những thành phần tạo ra món bánh ú: lá tre. “Đây là một phương thuốc trong đông y. Theo y học cổ truyền, lá tre có vị đắng, tính mát, có tác dụng giải nhiệt, hạ sốt, dùng trong chữa trị cảm nắng, sốt cao…”, ThS. Trần Chí Thành, Giám đốc Công ty TNHH MTV Sắc Mộc Tinh, giải thích trong hội thảo về công nghệ sản xuất trà lá tre do Trung tâm Thông tin và Thống kê Khoa học & Công nghệ TP.HCM tổ chức vào cuối tháng 6 vừa qua.
Những ưu điểm trên khiến các ứng dụng của lá tre ngày càng phổ biến, đặc biệt là trong ngành thực phẩm. Hiện nay, lá tre của Việt Nam đang được xuất khẩu sang nhiều quốc gia như Đài Loan, Nhật Bản… Theo thống kê của Tổng cục Hải quan, giá trị xuất khẩu lá tre trong tháng 2/2023 đạt 133.000 USD, tăng 149,9% so với cùng kỳ năm trước. Ở Việt Nam, lá tre thường có giá rẻ, thậm chí bị coi là phụ phẩm của ngành tre, nhưng sang nước ngoài lại trái ngược - lá tre được bán với giá cao, dùng để gói bánh, gói thực phẩm hoặc trang trí thức ăn.
Liệu có cách nào để phát huy tiềm năng của lá tre ngoài việc sử dụng trực tiếp làm lá gói bánh như trên? ThS. Trần Chí Thành đã nghĩ đến việc chế biến lá tre thành một sản phẩm tốt cho sức khỏe, tiện lợi cho người tiêu dùng như trà lá tre. Đây không phải là một hướng đi mới, trên thị trường đã có một số sản phẩm trà lá tre của các doanh nghiệp Việt Nam. Do vậy, khi bắt tay vào xây dựng quy trình sản xuất trà lá tre, ThS. Trần Chí Thành đã xác định phải tạo giá trị khác biệt cho sản phẩm bằng khoa học và công nghệ. “Lợi thế của chúng tôi là chuyên về nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ. Nhờ đó, chúng tôi có thể tìm ra vấn đề, cải tiến sản phẩm tốt hơn. Đây là yếu tố cốt lõi để thuyết phục được khách hàng tin dùng sản phẩm”, anh nhận định.

Giữ màu xanh cho nước trà

Cũng như hầu hết các loại trà thảo mộc khác, quy trình chế biến trà lá tre chủ yếu xoay quanh các bước thu hái, sơ chế, sấy khô và đóng gói để tạo ra thành phẩm, có thể dưới dạng lá tre khô hoặc túi lọc. Khi mua các sản phẩm này trên thị trường và dùng thử, ThS. Trần Chí Thành nhận thấy khi pha bằng nước nóng, nước lá tre nhanh chuyển từ xanh tươi thành xanh đen. Hiện tượng này không phải là hiếm gặp, các loại trà, hoặc bột thực vật sấy như bột rau má, cần tây… cũng bị đổi màu khi pha nước nóng. Các nhà sản xuất thường khuyến cáo nên pha bằng nước lạnh và dùng ngay, bởi nếu để lâu, nước trà cũng sẽ bị chuyển màu.

Hiện tại, sản phẩm trà lá tre có tiềm năng phát triển rất lớn. Sản phẩm có thể bán ra thị trường như sản phẩm trà thông thường giúp cung cấp dinh dưỡng, khoáng chất cho cơ thể, từ đó hướng đến phát triển thành thực phẩm chức năng mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe con người. Đồng thời phát triển các sản phẩm nội địa hóa, sản phẩm thương mang hiệu quốc gia, nâng tầm giá trị cho cây tre Việt Nam. Trần Chí Thành

Hiện tượng nước lá tre đổi màu bắt nguồn từ đâu và có tác động như thế nào? Thực chất, cơ chế này cũng giống như màu lá cây chuyển từ màu xanh sang màu vàng/đỏ vào mùa thu. “Vấn đề nằm ở diệp lục tố (chlorophyll) trong lá cây bị phân hủy, do một loại enzyme phân hủy magie (Mg-dechelatase), được mã hóa bởi gene stay green (SGR)”, ThS. Trần Chí Thành giải thích. “Tình trạng này cũng xảy ra trong điều kiện axit, các phân tử diệp lục dễ bị mất magie trong vòng porphyrin để trở thành pheophytin”. Chúng ta có thể dễ dàng thấy được điều này trong các thí nghiệm ở môi trường pH axit, diệp lục trong lá cây bị phân hủy, giảm dần màu xanh. Cụ thể, trong khoảng pH từ 2-5, chất diệp lục chuyển từ xanh lục sang xanh oliu - lục vàng. Trong điều kiện pH kiềm, từ 6-14, màu xanh vẫn ổn định. Hầu hết các dịch chiết thực vật, bao gồm nước trà, các loại sinh tố… đều có độ pH axit, gây ra hiện tượng đổi màu. Điều này không chỉ ảnh hưởng về mặt thẩm mỹ mà còn là dấu hiệu cho thấy các chất dinh dưỡng đã bị biến đổi, do axit đẩy nhanh quá trình oxy hóa và khử các chất có trong nước trà.

Ngoài độ pH, một yếu tố khác ảnh hưởng đến hàm lượng dinh dưỡng của nước trà là phương pháp chiết. Về bản chất, pha trà bằng nước nóng chính là phương pháp tách chiết các hợp chất từ lá trà sang dung môi nước. So với các phương pháp chiết khác như chưng cất, chiết lỏng có áp suất…, phương pháp ngâm nóng có hiệu suất thấp nhất. Khi pha trà lá tre, chúng ta chỉ thu được một số chất dễ tan trong nước như flavonoid (quercetin), lignan, axit phenolic và các khoáng chất, chứ không phải tất cả các chất trong lá tre. “Hai chất đầu tiên nhạy cảm với nhiệt độ cao và pH axit. Như vậy, phương pháp chiết bằng nước nóng đã thu được ít, nếu chúng ta không có phương pháp bảo vệ thì các chất đấy sẽ mất hết”, ThS. Trần Chí Thành giải thích.

Quá trình bóc tách những hiện tượng hóa học trong nước trà đã giúp ThS. Trần Chí Thành tìm ra giải pháp khắc phục hiện tượng đổi màu và suy giảm chất dinh dưỡng. Nguyên lý của giải pháp này khá đơn giản: thay đổi độ pH axit thành pH kiềm. Thực ra, câu trả lời vốn ẩn chứa trong chiếc bánh ú truyền thống, thường được chế biến bằng cách ngâm gạo với nước tro, sau đó gói lá tre, “dù nấu bao lâu vẫn giữ được màu xanh, bởi tro có pH kiềm, giúp giữ được diệp lục”, ThS. Trần Chí Thành giải thích. Tương tự, nhóm nghiên cứu đã ứng dụng công nghệ kiềm hóa lá tre bằng cách sử dụng muối kiềm. Nhiệm vụ của họ là chọn loại muối kiềm phù hợp, an toàn cho sức khỏe, và tìm ra công thức kết hợp vào quy trình sản xuất trà lá tre.

 

Quy trình công nghệ sản xuất trà lá tre.

Cụ thể, sau khi thu hái và làm sạch lá tre, nhóm nghiên cứu sẽ ngâm trong dung dịch muối kiềm nhẹ, có độ pH là 7,5, gia nhiệt ở 100oC trong một phút, để ráo rồi đưa vào sấy lạnh, sau đó băm nhuyễn, đóng gói thành trà túi lọc. “Việc gia nhiệt sẽ giúp muối kiềm bám sâu trên lá, sấy lạnh xong mới băm nhuyễn, bởi nếu băm nhuyễn trước thì lá tre sẽ tăng tiếp xúc với oxy, dễ bị hỏng”, ThS. Trần Chí Thành giải thích. Sản phẩm trà lá tre được sản xuất theo quy trình này cho nước màu xanh nhạt, sau khi pha bằng nước sôi, lá trà vẫn giữ được màu xanh, không bị ngả vàng. Do nước lá tre thường có vị hơi đắng, họ đã bổ sung cỏ ngọt và lá dứa để điều hương và điều vị, giúp dễ uống hơn.

Nâng cao giá trị của lá tre

Khi giới thiệu sản phẩm mới cho những khách hàng thân thiết của công ty, “tất cả đều rất ngạc nhiên khi biết có một loại trà làm từ lá tre”, ThS. Trần Chí Thành cho biết. Như vậy, sản phẩm này còn khá mới trên thị trường, ít nơi làm, tính cạnh tranh không cao. Một tín hiệu tích cực nữa là sản phẩm nhận được những phản hồi tốt: “Khi gửi sản phẩm cho một số khách hàng dùng thử, họ đều có những phản hồi tốt, hương vị ngon. Một số trường hợp bị yếu thận, hay tiểu đêm, sau khi dùng khoảng 3-4 ngày thì không còn bị tiểu đêm nữa”, anh hào hứng kể lại.
Hiện nay nhóm nghiên cứu mới sử dụng nguyên liệu từ lá tre gai, tuy nhiên, thành phần dinh dưỡng các loại tre cơ bản không quá khác biệt, vì vậy quy trình sản xuất trà lá tre có thể mở rộng cho các loại tre khác. Điều này có ý nghĩa rất lớn với một quốc gia có diện tích trồng tre lớn như Việt Nam - gần 1,6 triệu ha trên cả nước. Công nghệ này đã thu hút sự chú ý của nhiều người trồng tre: “Ngoài chăn nuôi, chúng tôi có kết hợp trồng tre, khi nghe giới thiệu về công nghệ sản xuất trà từ lá tre giúp gia tăng giá trị, chúng tôi rất phấn khởi. Nhưng trong điều kiện không có nhiều vốn đầu tư thì việc sản xuất có khả thi không?”, đại diện hợp tác xã Phước An (TP.HCM) bày tỏ.

Những băn khoăn của người trồng tre cũng là điều mà nhóm nghiên cứu đã tính đến. “Quy trình của chúng tôi có thể ứng dụng linh hoạt theo nhiều quy mô, từ quy mô nhỏ, quy mô bán công nghiệp hoặc quy mô công nghiệp. Chi phí đầu tư cho máy móc sẽ tùy thuộc vào quy mô sản xuất, các thiết bị công suất nhỏ sẽ có giá rẻ hơn”, ThS. Trần Chí Thành cho biết. “Ngoài ra, chúng tôi cũng có thể hợp tác với các bên theo nhiều hướng khác nhau, có thể chuyển giao công nghệ hoặc cho thuê công nghệ (trong trường hợp không đủ kinh phí chuyển giao), hoặc chúng tôi có thể tự triển khai sản xuất, bất cứ ai muốn làm đại lý phân phối sản phẩm, chúng tôi cũng sẵn sàng hợp tác”.

Theo khoahocphattrien.vn

8. Phác đồ điều trị mới giúp bệnh nhân đứt dây chằng chéo trước tránh khỏi phẫu thuật

Một nghiên cứu mới đã tìm ra một phương pháp mới, không phẫu thuật, rất hiệu quả trong việc chữa lành chấn thương thể thao thông thường, đứt dây chằng chéo trước (ACL). Phương pháp này có thể là một cách để giúp những người mắc bệnh tránh được phẫu thuật hoàn toàn.

 

ACL là một dải mô mạnh mẽ giúp ổn định khớp gối. Đó là một trong hai dây chằng bắt chéo giữa đầu gối, nối xương đùi (xương đùi) với xương ống chân (xương chày). Và nó thường bị vỡ khi tham gia các môn thể thao như bóng đá, bóng rổ, bóng bầu dục và trượt tuyết đổ đèo liên quan đến việc dừng đột ngột, nhảy, hạ cánh và thay đổi hướng.

Theo một nghiên cứu năm 2019, chỉ riêng ở Hoa Kỳ, 250.000 người bị đứt dây chằng chéo trước mỗi năm. Hầu hết họ đều phải trải qua phẫu thuật tái tạo (ACLR) sớm hoặc chọn phẫu thuật sau một thời gian phục hồi chức năng không phẫu thuật. Dù bằng cách nào, phẫu thuật đều có nguy cơ biến chứng sau phẫu thuật, bao gồm đau, cứng khớp và giảm phạm vi chuyển động ở khớp gối, mất ổn định khớp và kéo giãn hoặc đứt mảnh ghép được sử dụng trong quá trình tái tạo.

Mới đây, các nhà nghiên cứu từ Đại học Melbourne hiện đã phát triển được một quy trình không phẫu thuật mới liên quan đến nẹp và vật lý trị liệu có thể cải thiện khả năng chữa lành vết thương sau khi đứt dây chằng chéo trước và giúp tránh phải phẫu thuật hoàn toàn.

Các nhà nghiên cứu đã sử dụng kiến thức về giải phẫu và sinh lý học của đầu gối làm điểm khởi đầu. Họ biết rằng ACL có nguồn cung cấp máu phong phú và các đầu của dây chằng bị rách càng gần thì khoảng cách cần bắc cầu để nối lại càng nhỏ.

Áp dụng kiến thức này, các nhà nghiên cứu đã phát triển giao thức giằng chéo (CBP) mới của họ. Họ tuyển chọn 80 bệnh nhân bị đứt ACL cấp tính trong độ tuổi từ 10 đến 58 và cho họ đeo nẹp cố định đầu gối bị thương ở góc 90° trong bốn tuần. Trong thời gian đó, những người tham gia nghiên cứu được yêu cầu phải đeo nẹp mọi lúc, kể cả khi ngủ và khi tắm.

Sau bốn tuần, phạm vi chuyển động của đầu gối đã tăng lên nhờ điều chỉnh nẹp tăng dần mỗi tuần và phục hồi chức năng dưới sự giám sát của chuyên gia vật lý trị liệu, bao gồm tăng cường cơ bắp và rèn luyện chức năng để cho phép quay trở lại các hoạt động thể thao và giải trí, đã được giới thiệu. Vào tuần thứ 10, bệnh nhân được phép thực hiện phạm vi chuyển động không hạn chế, với việc tháo nẹp vào tuần thứ 12.

Khi theo dõi sau tuần thứ 12, các nhà nghiên cứu đã thực hiện chụp cộng hưởng từ (MRI) đầu gối của bệnh nhân. Họ phát hiện ra rằng 90% cho thấy bằng chứng về việc chữa lành ACL. Tức là ACL đã được nối hoặc tái kết nối. Chữa lành sau 3 tháng có liên quan đến chức năng đầu gối tốt hơn sau 12 tháng, chất lượng cuộc sống được cải thiện và tỷ lệ có thể trở lại chơi thể thao cao hơn.

Bước tiếp theo đối với các nhà nghiên cứu là thực hiện các thử nghiệm lâm sàng và theo dõi lâu dài hơn để đánh giá phác đồ điều trị mới của họ.

Stephanie Filbay, tác giả chính của nghiên cứu cho biết: “Nếu lợi ích của phương pháp điều trị này được thử nghiệm lâm sàng thì điều này có thể dẫn đến một sự thay đổi mô hình, theo đó mọi người nhắm đến việc chữa lành ACL bị vỡ thay vì tái tạo lại nó bằng phẫu thuật. Chúng tôi hiện đang lên kế hoạch cho một thử nghiệm lâm sàng để đánh giá liệu phương pháp điều trị mới này có mang lại kết quả tốt hơn so với phẫu thuật ACL đối với trường hợp vỡ ACL cấp tính hay không”.

Nghiên cứu được công bố trên Tạp chí Y học Thể thao Anh Quốc.

Theo vista.gov.vn

9.Các biện pháp có thể giảm nguy cơ mắc tiểu đường

Trong 30 năm qua, số lượng bệnh nhân tiểu đường trên toàn thế giới đã tăng gần gấp đôi. Tình trạng này diễn ra ở tất cả các quốc gia và khu vực. Người trên 65 tuổi là những người bị ảnh hưởng nhiều nhất, trung bình toàn cầu cứ 5 người trong nhóm này thì có 1 người bị tiểu đường. Theo dự báo, số ca mắc bệnh tiểu đường trên toàn thế giới có thể tăng từ 529 triệu người hiện nay lên 1,3 tỷ người vào năm 2050, theo bài đăng trên tạp chí The Lancet.

 

Những người bị tiểu đường do bị mất cân bằng trong quá trình điều hòa lượng đường trong máu. Ban đầu các tế bào không còn phản ứng đúng cách với insulin nội tiết tố đường trong máu, và sau đó các tế bào sản xuất insulin trong tuyến tụy bị tổn thương.

Các yếu tố nguy cơ chính của bệnh tiểu đường loại 2 là béo phì và chế độ ăn uống sai lầm, ngoài ra còn có yếu tố di truyền.

Một nhóm nghiên cứu quốc tế do Kanyin Liane Ong từ Đại học Washington dẫn dắt đã đánh giá tình trạng mắc bệnh tiểu đường ở 204 quốc gia và khu vực, kiểm tra sự phân bố của bệnh tiểu đường giữa các độ tuổi khác nhau và mối liên hệ của nó với 16 yếu tố rủi ro khác nhau. Kết quả thu được cho thấy, kể từ năm 1990, tỷ lệ người mắc bệnh tiểu đường trên toàn thế giới đã tăng gần gấp đôi. Cách đây 30 năm, mới chỉ có 3,2% dân số thế giới bị ảnh hưởng nhưng hiện nay con số này là 6,1%. Tổng cộng có 529 triệu người trên toàn thế giới đang sống chung với bệnh tiểu đường ngày nay.

Các nhà nghiên cứu kết luận, tiểu đường là một phần của gánh nặng bệnh tật toàn cầu (GBD). Ong cho biết: “Tốc độ gia tăng bệnh tiểu đường không chỉ đáng báo động mà còn là thách thức đối với hệ thống chăm sóc sức khỏe trên thế giới. Điều này liên quan đặc biệt đến các biến chứng của bệnh tiểu đường“.

Nếu xu hướng này tiếp tục, đến năm 2050, 1,3 tỷ người trên toàn thế giới có thể mắc bệnh tiểu đường. Theo dự báo của nhóm, tỷ lệ những người bị ảnh hưởng sẽ tăng từ 60 đến 70%.

Tập trung nhiều ở Trung Đông và Châu Đại Dương

Hóa ra, nơi có tỷ lệ mắc bệnh tiểu đường cao không ở các nước công nghiệp hóa giàu có ở phương Tây mà là ở Bắc Phi, Trung Đông và Châu Đại dương. Trong khi đó, tỷ lệ bệnh nhân tiểu đường ở Đức là từ 4 đến 6 % tổng dân số thì ở quần đảo Marshall, tỷ lệ người bị bệnh là 22%. Ở các quốc gia vùng Vịnh thuộc Trung Đông, tỷ lệ mắc bệnh tiểu đường trung bình là 15%. Nếu chỉ nhìn vào số người trên 65 tuổi, tỷ lệ mắc bệnh tiểu đường cao hơn đáng kể. Nguyên nhân chính là do tình trạng béo phì và chế độ ăn uống không lành mạnh.

Nhóm nghiên cứu cho rằng, béo phì, lười vận động và chế độ ăn uống không lành mạnh là những nguyên nhân chính dẫn đến sự phát triển này. Ong giải thích: “Đặc biệt ở các nước có thu nhập thấp và trung bình, thường có sự chuyển đổi đột ngột từ chế độ ăn uống truyền thống sang thực phẩm được sản xuất công nghiệp. Điều này có liên quan đến sự gia tăng đáng kể bệnh tiểu đường loại 2″.

Các yếu tố kinh tế-xã hội cũng có vai trò nhất định, như chăm sóc sức khỏe và giáo dục thường không đầy đủ, đặc biệt là ở các nước đang phát triển và mới nổi, đồng thời cũng có những bất bình đẳng về xã hội và tài chính khiến phần lớn dân số gặp khó khăn trong cuộc sống.

Theo các nhà nghiên cứu thì bệnh tiểu đường loại 2 phần lớn có thể phòng ngừa và trong nhiều trường hợp có khả năng hồi phục nếu được phát hiện và điều trị sớm.

Những biện pháp giảm nguy cơ tiểu đường

Giảm cân nặng

Chỉ số khối cơ thể (BMI) từ 25 trở lên được coi là thừa cân và chỉ số BMI từ 30 trở lên được coi là béo phì.

Tập thể dục ít nhất 30 phút mỗi ngày

 

Tập tạ và các môn thể thao sức bền (ví dụ: chạy bộ, đạp xe, bơi lội) được coi là đặc biệt hiệu quả. Nhưng mọi biện pháp vận động đều có giá trị. Việc đi cầu thang bộ thay vì thang máy, đi bộ trong khi nói chuyện điện thoại hoặc đạp xe đi làm đều giúp ích cho bạn.

Ăn uống lành mạnh

Theo các nghiên cứu, chế độ ăn Địa Trung Hải sẽ có tác dụng phòng ngừa bệnh tiểu đường loại 2. Đặc biệt, các chất xơ ăn kiêng giúp chống lại quá trình chuyển hóa đường và chất béo bị xáo trộn và cải thiện tác dụng của insulin trong cơ thể. Nên dùng 15 gam chất xơ mỗi ngày và 1000 calo (khoảng 30 gam). Do đó, chế độ ăn uống của bạn nên bao gồm nhiều rau và trái cây cũng như các sản phẩm ngũ cốc nguyên hạt. Cắt giảm muối và đường, các loại đậu đỗ cũng làm tăng sự cân bằng chất xơ trong chế độ ăn uống.

Tránh chất béo

Không nên ăn nhiều thịt và xúc xích. Những người không thể không ăn thì nên chọn các thực phẩm ít chất béo, đối với phô mai cũng như các loại cá cũng vậy (nên ăn cá hồi, cá ngừ, cá thu) và chú ý đến một chế độ ăn uống cân bằng protein và chất béo. Các axit béo omega-3 (PUFA) trước đây được cho là rất quan trọng để phòng ngừa và điều trị các bệnh tim mạch nhưng các phân tích khoa học gần đây vẫn chưa chứng minh được điều đó.

Hạn chế các loại nước ngọt

Nước chanh, cola và nước ép trái cây là núi đường dạng lỏng và làm tăng lượng đường trong máu và insulin, không chỉ góp phần đáng kể vào tình trạng thừa cân và béo phì mà còn thúc đẩy kháng insulin và do đó có thể dẫn đến bệnh tiểu đường.

Cà phê có thể có tác dụng bảo vệ: bốn hoặc tối đa bảy tách cà phê mỗi ngày (kể cả loại cà phê đã khử khử coffein) có thể giảm 25% nguy cơ gây tiểu đường loại 2.

Hạn chế chất có cồn

Uống rượu làm tăng lượng đường trong máu, làm tổn thương hệ thần kinh và dẫn đến gan nhiễm mỡ do rượu. Tốt nhất nên tránh hoàn toàn hoặc chỉ uống vừa phải, là 10 gam đối với phụ nữ (một ly rượu vang trắng) và 20 gam đối với nam giới (nửa cốc bia).7.Không hút thuốc lá

Hút thuốc lá hay chất nikotin là yếu tố quan trọng gây bệnh tiểu đường

Những người bỏ thuốc lá có thể nguy cơ bị tiểu đường typ 2 từ 30 đến 50%.

Hãy giữ huyết áp ở mức độ trung bình

Điều này làm giảm nguy cơ biến chứng nguy hiểm do bệnh tiểu đường. Huyết áp cao kết hợp với lượng đường trong máu tăng cao và rối loạn chuyển hóa lipid (cholesterol LDL cao) dẫn đến tổn thương các mạch máu nhỏ (thận, mắt, tim, dây thần kinh, não) và các mạch lớn (=xơ cứng động mạch) trong tim , não, chân và thận.

Ngủ đẫy giấc

Thiếu ngủ hoặc rối loại giấc ngủ tác động tiêu cực đến giá trị đường trong máu, đến tác động của insulin và bài tiết insulin. Rối loạn giấc ngủ nghiêm trọng, bao gồm cái gọi là hội chứng ngưng thở khi ngủ, có liên quan chặt chẽ với bệnh tiểu đường.

Hãy tránh stress

Hormone stress (căng thẳng) khiến lượng đường trong máu tăng lên. Do đó, hãy cố gắng giảm thiểu các nguyên nhân gây căng thẳng không cần thiết hoặc tránh chúng hoàn toàn càng nhiều càng tốt. Mọi người nên dành đủ thời gian để nghỉ ngơi và áp dụng việc luyện thở hoặc yoga.

Theo tiasang.com.vn

10. Lợi ích của giấc ngủ ngắn vào ban ngày đối với não bộ

Theo một nghiên cứu mới, những người trưởng thành có thói quen ngủ một giấc ngắn vào ban ngày dường như có khối lượng não lớn hơn so với người không có thói quen này. Các nhà khoa học cho rằng giấc ngủ ngắn cung cấp một số biện pháp bảo vệ chống lại sự thoái hóa thần kinh. Tuy vậy, các chuyên gia nhấn mạnh rằng cần phải tiến hành nghiên cứu sâu hơn để đưa ra kết luận chính thức. Công trình này tiếp nối các nghiên cứu trước đó cho rằng một giấc ngủ ngắn có thể cải thiện khả năng học hỏi của con người.

 

Ngủ ngày thường xuyên cung cấp một số biện pháp bảo vệ chống lại tình trạng thoái hóa thần kinh. Ảnh: Getty Images.

Công bố trên tạp chí Sleep Health, các nhà nghiên cứu tại Đại học Cao đẳng London (UCL) và Đại học Cộng hòa ở Uruguay cho biết họ đã thu thập dữ liệu từ nghiên cứu Biobank của Vương quốc Anh. Nghiên cứu này đã đối chiếu thông tin về di truyền, lối sống và sức khỏe từ 500.000 người trong độ tuổi từ 40 đến 69.

Theo Arianna Huffington, đồng sáng lập của HuffPost, đồng thời là nhà sáng lập và giám đốc điều hành của công ty chăm sóc sức khỏe Thrive Global, giấc ngủ ngắn giúp người lao động có cảm giác được nghỉ ngơi đầy đủ, từ đó tác động tích cực đến năng suất. Các doanh nghiệp nên khuyến khích nhân viên chợp mắt một chút tại văn phòng. 

Huffington không phải người duy nhất nhận định như vậy. TS. Mattie Toma, trợ lý giáo sư trong nhóm khoa học hành vi tại Đại học Warwick, cho biết nghiên cứu của bà về những người lao động thành thị có thu nhập thấp ở Ấn Độ cho thấy giấc ngủ kéo dài nửa tiếng giúp tăng cường khả năng tập trung, sức khỏe và năng suất.

“Dựa trên những bằng chứng mới về lợi ích của giấc ngủ ngắn, không chỉ đối với sức khỏe của người lao động mà còn đối với lợi nhuận của công ty, các công ty nên cân nhắc tạo cơ hội cho nhân viên của mình ngủ trưa”, Toma cho biết.

Giáo sư Sara Mednick, Khoa khoa học nhận thức tại Đại học California, Irvine, đã nhất trí với nhận định trên. “Thiếu ngủ sẽ khiến chúng ta lơ đễnh, có thể gặp tai nạn tại nơi làm việc, mức độ sáng tạo và tập trung thấp hơn, đồng thời dễ cáu kỉnh hơn”, cô nhấn mạnh. 

“Doanh nghiệp cung cấp không gian nghỉ ngơi sẽ giảm được chi phí phát sinh từ việc tiêu tốn thời gian vào khắc phục sai sót do mệt mỏi. Đây cũng là cơ hội để những người đứng đầu doanh nghiệp nhìn nhận những rủi ro có thể xảy đến nếu bào mòn sức lực của nhân viên, từ đó ra các giải pháp từ trên xuống nhằm khuyến khích người lao động tự chăm sóc bản thân trong và ngoài công việc”.

Một số doanh nghiệp, như Thrive và HuffPost, đã mua cho nhân viên các vật dụng để ngủ. Từ năm 2014, Google trang bị túi ngủ còn Nike và Ben & Jerry’s lắp đặt phòng ngủ. Tương tự, ngày càng nhiều bệnh viện lắp đặt khoang ngủ cho nhân viên để giúp họ được nghỉ ngơi nhiều hơn.

Nhân viên có vẻ rất phấn khởi. Sean Greenwood, của Ben & Jerry’s, chia sẻ: “Theo kinh nghiệm của tôi, những nhân viên được nghỉ ngơi đầy đủ sẽ tích cực và sáng tạo hơn nhiều. Nếu một giấc ngủ ngắn thực sự làm được điều đó, thì chúng tôi rất sẵn lòng khuyến khích các thành viên trong nhóm của mình chợp mắt để thư giãn”.

Tuy nhiên, rất khó để thuyết phục các doanh nghiệp xây dựng văn hóa ngủ một giấc ngắn.

Huffington cho biết: “Thật không may, ngủ ngày vẫn thường bị đánh đồng với sự lười biếng, dù giấc ngủ ngắn từ lâu đã là bí quyết của nhiều người nổi tiếng trong lịch sử”. Winston Churchill, Salvador Dalí và Margaret Thatcher đều là những người coi trọng giấc ngủ ngắn.

Các chuyên gia về giấc ngủ nhấn mạnh rằng một giấc ngủ ngắn vào ban ngày rất có lợi, nhưng một vấn đề khác cần lưu ý đó là chúng ta vẫn phải ngủ đủ giấc vào ban đêm. “Đôi khi, ngủ ngày là dấu hiệu cho thấy mọi người không ngủ đủ giấc vào ban đêm, vì vậy họ cần phải ngủ bù”, Colin Espie, giáo sư về y học giấc ngủ tại Đại học Oxford, cho biết. 

Theo ông, mọi người nên tránh các yếu tố có thể làm rối loạn giấc ngủ – chẳng hạn tránh uống các loại nước chứa caffein vào buổi tối, hoặc hạn chế sử dụng điện thoại và máy tính bảng vào ban đêm.

“Nếu mọi người cảm thấy mình đang ngủ quá nhiều, hãy thử cân nhắc xem mình có đang gặp vấn đề về giấc ngủ hay lối sống hay không”.

Ngoài ra, một số nghiên cứu trước đây cũng cho thấy ngủ ngày quá nhiều có thể là dấu hiệu cảnh báo sớm về tình trạng suy giảm nhận thức.

Theo tiasang.com.vn

  • slideshow_large
  • slideshow_large
  • slideshow_large
  • slideshow_large
  • slideshow_large
Truy cập hôm nay : 15
Truy cập trong 7 ngày :38
Tổng lượt truy cập : 6,407